Bản án 91/2019/HNGĐ-ST ngày 22/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 91/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 22 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 580/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 201/2019/QĐST-HNGĐ ngày 04/07/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thế Thị Th, sinh năm 1984

- Bị đơn: Ông Lê Đình S, sinh năm 1979.

Cùng địa chỉ cư trú hiện nay: M4/101C, tổ 29A, Khu phố 6, phường Tân Ph, Thành phố B, tỉnh Đ

(Bà Th có đơn xin xét xử vắng mặt, Ông Lê Đình S vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Nguyễn Thế Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Lê Đình S tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào năm 2007 tại UBND xã Ph, huyện T, tỉnh Đ. Quá trình chung sống hai người chỉ hạnh phúc được thời gian đầu, nhưng sau đó giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, xuất phát từ khác biệt trong quan niệm sống giữa hai người, làm tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, mâu thuẫn ngày càng lớn dần. Mặc dù cả hai đã cố gắng hòa hợp, dung hòa nhằm cứu vãn cuộc sống hôn nhân, nhưng không thành. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông S

Về con chung: Có hai người con chung là các cháu Lê Nguyễn Như Q, sinh ngày 13/09/2007 và Lê N, sinh ngày 11/5/2016. Ly hôn bà Th xin được nuôi dưỡng hai con và không yêu cầu ông S phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Bà Th khai hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà Th khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn Ông Lê Đình S: đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông S vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không có văn bản giải trình, không đến Tòa án làm việc và tham gia phiên tòa. Vì vậy, không có lời trình bày.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Tnh phố B:

Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho Bà Nguyễn Thế Thị Th được ly hôn với ông Lê Đình S.

- Về quan hệ con chung: Có hai người con chung là các cháu Lê Nguyễn Như Q, sinh ngày 13/09/2007 và Lê N, sinh ngày 11/5/2016. Bà Th khai hiện đang là người trực tiếp nuôi các cháu Q và Nh. Quá trình làm việc bà Th cung cấp Giấy chứng nhận hộ kinh doanh mang tên bà Th để chứng minh về việc đủ điều kiện để nuôi hai con. Do đó, áp dụng các Điều 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của bà Th, giao các cháu Quỳnh và Nhã cho bà Th nuôi dưỡng và chăm sóc. Ông S được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà Th xác định về tài sản chung hai bên tự thỏa thuận; Nợ chung cả hai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do ông S vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông S, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí: Bà Nguyễn Thế Thị Th phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

- Bà Nguyễn Thế Thị Th khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Đình S; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà Th là nguyên đơn còn ông S là bị đơn trong vụ án.

- Ông Lê Đình S có địa chỉ cư trú hiện nay tại số: M4/101C, tổ 29A, Khu phố 6, phường Tân Ph, Thành phố B, tỉnh Đ Căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố B, tỉnh Đ

- Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Lê Đình S tại địa chỉ này, nhưng ông S vẫn vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, tiếp cận, công khai chứng cứ; hòa giải và tham gia phiên tòa. Ngoài ra, vào ngày 04/07/2019, bà Th có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử vắng mặt ông S và bà Th.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Bà Nguyễn Thế Thị Th và ông Lê Đình S tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào năm 2007 tại UBND xã Ph, huyện T, tỉnh Đ. Do đó, cần áp dụng các quy định tại Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000, xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hai người chỉ hạnh phúc được thời gian đầu, nhưng sau đó giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, xuất phát từ khác biệt trong quan niệm sống giữa hai người, làm tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, mâu thuẫn ngày càng lớn dần. Mặc dù cả hai đã cố gắng hòa hợp, dung hòa nhằm cứu vãn cuộc sống hôn nhân, nhưng không thành. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà Th làm đơn xin được ly hôn với ông S. Xét yêu cầu ly hôn của ông Phương là có cơ sở chấp nhận vì theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng, trong quá trình chung sống nhiều năm; vợ chồng bà Th và ông S chung sống với nhau không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn rất nghiêm trọng. Theo Biên bản xác minh nơi cư trú của Công an phường Tân Ph và Biên bản xác minh mâu thuẫn vợ chồng của ủy ban nhân dân phường Tân Ph thì hiện nay ông S có cư trú tại và sinh sống tại địa chỉ: M4/101C, tổ 29A, Khu phố 6, phường Tân Ph, Thành phố B, tỉnh Đ đồng thời xác nhận việc giữa hai vợ chồng có mâu thuẫn với nhau. Mặt khác, quá trình làm việc, mặc dù ông S đã được tống đạt hợp lệ nhiều lần, nhưng đều cố ý vắng mặt, thể hiện việc không có ý định muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, thể hiện việc mâu thuẫn trong tình cảm vợ chồng giữa ông S và bà Th là có thật, đời sống chung không có, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Nguyễn Thế Thị Th được ly hôn với ông Lê Đình S.

[3]. Về con chung: Có hai người con chung là các cháu Lê Nguyễn Như Q, sinh ngày 13/09/2007 và Lê Nh, sinh ngày 11/5/2016. Bà Th khai hiện đang là người trực tiếp nuôi các cháu Q và Nh. Quá trình làm việc bà Th cung cấp Giấy chứng nhận hộ kinh doanh mang tên bà Th để chứng minh về việc đủ điều kiện để nuôi hai con, đồng thời cháu Q cũng có bản khai thể hiện nguyện vọng muốn được ở cùng mẹ là bà Th. Do đó, để đảm bảo điều kiện của các cháu Q và Nh cả về vật chất lẫn tinh thần và tránh sự xáo trộn trong tâm lý các cháu, xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của bà Th, giao các cháu Q và cháu Nh cho bà Th nuôi dưỡng và chăm sóc. Ông S được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà Th xác định về tài sản chung các bên tự thỏa thuận; Nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, do ông S vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông S, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Nguyễn Thế Thị Th phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

- Áp dụng Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thế Thị Th được ly hôn với ông Lê Đình S.

Về con chung: Giao các cháu Lê Nguyễn Như Q, sinh ngày 13/09/2007 và Lê N, sinh ngày 11/5/2016 cho bà Nguyễn Thế Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Ông S được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà Th xác định về tài sản chung các bên tự thỏa thuận; Nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, do ông S vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông s, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thế Thị Th phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0004384 ngày 19/03/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố B. Bà Th đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm

Bà Nguyễn Thế Thụ Th và ông Lê Đình S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2019/HNGĐ-ST ngày 22/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:91/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về