Bản án 904/2019/HS-PT ngày 21/11/2019 về tội chiếm giữ trái phép tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 904/2019/HS-PT NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI CHIẾM GIỮ TRÁI PHÉP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 11 năm 201 9 , tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 793/2019/ TLP T - HS ngày 28/10/2019 đối với các bị cáo Phạm Văn L-BC1 và Bùi Văn S-bc2 do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 207/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 của Toà án nhân dân quận X, thành phố Hà Nội.

* Các bị cáo kháng cáo:

1. Phạm Văn L- BC1; sinh ngày ...; giới tính: Nam; nơi cư trú: ..., Nam Định; nghề nghiệp: Lái xe taxi; trình độ văn hóa: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn S ... và bà Phùng Thị X ...; chưa có tiền án, tiền sự; bị bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 09/5/2019 đến ngày 17/5/2019; tại ngoại và bị Cấm đi khỏi nơi cư trú; ĐT: ...; có mặt.

2. Bùi Văn S- bc2; sinh ngày ...; giới tính: Nam; nơi cư trú: ..., Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Bùi Thanh H... và bà Nguyễn Thị D ...; tiền án, tiền sự: Ngày 20/9/2018, Ủy ban nhân dân xã ... (..., Nam Định) ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm kỷ luật Đào ngũ theo hình thức phạt tiền là 5.000.000đồng (chưa nộp phạt); bị bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 09/5/2019 đến ngày 17/5/2019; tại ngoại và bị Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

* Ngoài ra, còn có bị hại (anh ... Chul...; sinh năm ...; quốc tịch: Hàn Quốc; địa chỉ tạm trú tại Việt Nam: ..., Hà Nội) và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (anh Hoàng Ích H... và anh Nguyễn Tuấn A...): Không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 06/5/2019, sau khi hát karaoke tại quán ... (địa chỉ: ..., Hà Nội) thì anh ... Chul... (quốc tịch: Hàn Quốc) nhờ anh Đinh Thanh T... (sinh năm ...; NKTT:...) là lễ tân của quán karaoke gọi hộ xe taxi; anh T... đã gọi và đưa anh Chul lên xe taxi của hãng ... (biển kiểm soát: ...) do L- BC1 điều khiển; anh Chul yêu cầu đưa về đường ....

Khi đi đến đường ... (phường ..., Hà Nội) thì có mâu thuẫn về lộ trình nên anh Chul yêu cầu dừng lại và xuống xe; anh Chul và L- BC1 xảy ra tranh cãi, L- BC1 đã cầm tuốc nơ vít đánh nên anh Chul bỏ chạy và để lại trên xe taxi 01 chiếc túi xách màu xanh (bên trong có 90.500.000 đồng và 2400USD, 01 điện thoại di động Samsung S7, 01 điện thoại di động Samsung S8 Plus và các giấy tờ tùy thân mang tên ... Chul...). Sau khi anh Chul bỏ chạy, L- BC1 điều khiển xe taxi đi đến đường ... (phường ..., Hà Nội) thì phát hiện tại ghế sau có một chiếc túi xách bằng da màu xanh và 01 chiếc áo Vest; L- BC1 biết tài sản là của anh Chul, kiểm tra và phát hiện bên trong túi xách có tiền nên L- BC1 gọi điện thoại nói cho Bùi Văn S- bc2 (bạn ở cùng phòng trọ) biết nội dung sự việc, bảo S- bc2 về phòng trọ đếm tiền và S- bc2 đồng ý. Khoảng 01 giờ ngày 07/05/2019, S- bc2 điều khiển xe máy Honda (BKS: ...) đến chung cư ... (thuộc địa bàn phường ..., Hà Nội) đón L- BC1 về nhà trọ của S- bc2 (địa chỉ: ..., Hà Nội).

L- BC1 và S- bc2 mở túi kiểm tra và phát hiện 02 phong bì để số tiền là 80.000.000đồng và 01 phong bì để 2000USD. Trong khi L- BC1 và S- bc2 đang đếm tiền thì bạn gái của anh Chul là chị Nguyễn Thị H... (sinh năm ...; NKTT: ...) gọi điện thoại đến số 096 ... của L- BC1 để hỏi và yêu cầu L- BC1 trả lại tài sản cho anh Chul. Sau đó, S- bc2 hỏi L- BC1 “Vừa nói chuyện với ai” thì L- BC1 nói “Bạn của khách Hàn Quốc”. L- BC1 và S- bc2 bàn nhau cất giấu số tài sản trên tại nhà trọ và vứt chiếc túi, giấy tờ tại khu vực đường ... (phường..., Hà Nội) rồi nói với chị H... là “anh Chul xuống xe và đã vứt đồ tại hiện trường”. Sau đó, L- BC1 điều khiển xe taxi (BKS: ...) chở S- bc2 đi vứt túi xách và áo; khi lên xe taxi, S- bc2 phát hiện 01 chiếc ví cầm tay màu đen (bên trong có 400USD và 500.000đồng) nên đã lấy tiền đưa cho L- BC1; S- bc2 và L- BC1 vứt chiếc ví, túi xách, áo Vest và các giấy tờ tùy thân của anh Chul tại giải phân cách cứng đối diện cổng phụ của .... rồi về phòng trọ ngủ. Khoảng 11 giờ ngày 07/05/2019, do lo sợ việc bị phát hiện nên L- BC1 bàn với S- bc2 đến chỗ đã vứt túi xách để tìm lại giấy tờ và trả lại cho anh Chul, còn tiền và 02 chiếc điện thoại di động thì không trả lại; L- BC1 hứa sẽ cho S- bc210.000.000đồng để học bằng lái xe ô tô và S- bc2 đồng ý. Do không tìm thấy chiếc túi và các giấy tờ đã vứt bỏ nên S- bc2 bàn với L- BC1 sẽ đi xe khách vào Sài Gòn; khi đi đến địa phận tỉnh Thanh Hóa thì cả 02 người xuống xe, quay trở lại Hà Nội với mục đích tìm cách đối phó khi Cơ quan Công an triệu tập. Trong quá trình đi trốn, L- BC1 và S- bc2 đã chi tiêu hết 2.500.000đồng. Khoảng 13 giờ ngày 08/05/2019, do chị H... gọi điện nhiều lần để yêu cầu chỉ địa điểm vứt chiếc túi xách nên L- BC1 hẹn chị H... ra đường ... thì sẽ gặp người xe ôm sẽ chỉ vị trí vứt tài sản; L- BC1 bảo S- bc2 đóng giả làm xe ôm đến để chỉ vị trí vứt tài sản; khi S- bc2 đến nơi thì bị Công an phường ... kiểm tra hành chính và bàn giao cho Công an quận ... để giải quyết.

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 07/5/2019, anh Phùng Văn L- LC (sinh năm ...) điều khiển xe tải đi đến khu vực ngã tư đường ... thì phát hiện 01 túi xách (bên trong có 10.000.000 đồng và một số tài sản của anh Chul- do S- bc2và L- BC1 đã vứt trước đó) nên anh L- LC đã nhặt chiếc túi xách này và giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Cơ quan điều tra đã thu các vật chứng:

- Thu giữ của anh Phùng Văn L- LC: 10.000.000đồng, 01 túi xách màu xanh (kích thước khoảng 30x 40cm), 01 con dấu tròn, 01 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (của Công ty ...), 01 Passport (mang tên Kim ... và 03 thẻ (mang tên ... Chul...).

- Thu giữ của Phạm Văn L- BC1: 78.000.000đồng, 2000USD, 01 điện thoại S8 (có chữ AUTO FoCus), 01 điện thoại Samsung S7, 01 ốp lưng điện thoại màu bạc (bên trong màu đen), 01 ốp lưng điện thoại màu xanh (bên trong màu đen), 02 thẻ sim điện thoại (01 sim Hàn Quốc và 01 sim Vinaphone), 01 thẻ nhớ 64GB (có chữ Samsung), 01 ô tô màu bạc Kia morning (BKS: ...), 01 tô-vít dài khoảng 30cm (một đầu gắn cao su màu đen- đỏ, một đầu nhọn 4 cạnh), 01 điện thoại Iphone 6Plus 16 GB (số IMEI: ...) và 01 điện thoại Nokia 105 màu đen.

- Thu giữ của Bùi Văn S- bc2: 04 tờ tiền loại 100USD, 01 xe máy Honda Wave alpha (BKS: ...), 01 điện thoại di động OPPO CPH 1729 lắp 01 sim số 0365... (IMEI: ...).

- Thu giữ của anh ... Chul...: 01 đồng hồ For mula1Tag Heuer, mặt sau có chữ Waz 1112, WPP 4931, STAINLESS STEEL, mặt kính phía trên bị vỡ, màu trắng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 266 ngày 10/06/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận ..., xác định: 01 túi xách bằng da màu xanh, mặt trước có chữ Hazzys (kích thước 30x40cm) trị giá:

1.000.000đồng; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy S8 Plus, màu đen (Imei: ...) trị giá: 5.000.000đồng; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy S7, màu bạc (Imei: ...) trị giá: 3.000.000đồng; 01 ốp điện thoại màu bạc (mặt bên trong màu đen) trị giá: 50.000đồng; 01 ốp điện thoại màu xanh (mặt bên trong màu đen) trị giá: 50.000đồng; 02 sim điện thoại trị giá: 50.000đồng; 01 thẻ nhớ nhãn hiệu Samsung (dung lượng 64GB) trị giá: 200.000đồng; 01 chiếc ví cầm tay dạng ví gấp (bên ngoài màu đen, bên trong màu xanh dương không rõ nhãn hiệu) và 01 chiếc áo Vest (không rõ nhãn hiệu): Không đủ cơ sở định giá tài sản; tỷ giá USD ngày 07/5/2019 là 23.320 đồng Việt Nam/USD nên 2.400USD tương đương 55.968.000đồng.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave Alpha màu trắng (đeo BKS: ...): Kết quả điều tra xác định là xe máy của anh Hoàng Hữu Ích bị mất trộm ngày 26/02/2018 và xe có BKS: .... Bùi Văn S- bc2 khai mua xe của một người đàn ông (không rõ nhân thân) tại khu vực Mỹ Đình là 5.000.000 đồng, không lập giấy tờ và người bán xe nói đã làm mất đăng ký xe.

Tại bản Kết luận giám định số 4526/ KL-PC09-DD3 ngày 17/07/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: Xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha đeo biển kiểm soát: ... gửi giám định, hiện tại có số khung: ..., số máy: ... là số nguyên thủy; Không giám định BKS:

... do không có mẫu so sánh.

Đối với chiếc biển kiểm soát: ...: Kết quả điều tra xác định chiếc biển này của chiếc xe máy PIAGGIO, mang tên Phan Thị Minh H... (sinh năm ...; NKTT:..., Hà Nội); chị Hòa khai nhận đã mua và đăng ký xe từ ngày 12/4/2011 và hiện nay vẫn đang sử dụng chiếc xe này.

Đối với xe ô tô Kia Morning (BKS: ...): Phm Văn L- BC1 khai nhận đã thuê xe theo Hợp đồng của anh Nguyễn Tuấn A... để lái taxi.

Đối với hành vi của Phạm Văn L- BC1 đã đánh anh ... Chul...: Do thương tích không đáng kể nên anh Chul từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường về thương tích.

Ngày 30/05/2019, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả anh ... Chul...: 01 điện thoại Samsung Galaxy S8 Plus; 01 điện thoại Samsung Galaxy S7; 88.000.000đồng; 2.400USD; 01 túi xách màu xanh; 01 ốp điện thoại màu bạc; 01 ốp điện thoại màu xanh; 02 sim điện thoại; 01 thẻ nhớ (nhãn hiệu Samsung 64GB); 01 con dấu hình tròn Công ty ...; 01 giấy đăng ký kinh doanh; 01 Passport (mang tên ...); 03 thẻ (mang tên ... Chul...) và 01 đồng hồ For mula 1 Tag Heuer.

Đối với chiếc đồng hồ (bị vỡ mặt kính), 01 chiếc áo Vest, 01 chiếc ví cầm tay, 01 con dấu tên anh Chul và 2.500.000đồng do không thu giữ được và L- BC1, S- bc2 đã chi tiêu hết, anh Chul không có yêu cầu bồi thường về dân sự.

Ngày 12/7/2019, Cơ quan đã trao trả Phạm Văn L- BC1 01 ốp điện thoại màu đen có chữ Auto Focus.

Ngày 17/5/2019, Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh Nguyễn Tuấn A... 01 xe ô tô Kia Morning (...); anh Tuấn Anh đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác về dân sự.

Ngày 11/7/2019, Cơ quan điều tra đã trao trả anh Hoàng Ích H ...: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha (...); anh H... nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác về dân sự.

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số 207/2018/HS- ST ngày 17/9/2019, Toà án nhân dân quận ... , thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tun bố các bị cáo Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S- bc2 phạm tội Chiếm giữ trái phép tài sản.

- Áp dụng khoản 1 Điều 176, các điểm h, i và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn L- BC1 15 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ (từ ngày 10/5/2019 đến ngày 17/5/2019).

- Áp dụng khoản 1 Điều 176, các điểm h và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Văn S- bc2 09 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ (từ ngày 10/5/2019 đến ngày 17/5/2019).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 23/9/2019, các bị cáo Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S- bc2 đều có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

* Tại phiên tòa phúc thẩm: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, sửa về điều luật áp dụng và giữ nguyên quyết định về tội danh, hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S- bc2:

Áp dụng khoản 1 Điều 176, các i và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn L- BC1 15 tháng tù về tội Chiếm giữ trái phép tài sản; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ.

Áp dụng khoản 1 Điều 176, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Văn S- bc2 09 tháng tù về tội Chiếm giữ trái phép tài sản; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ.

c quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S- bc2 phù hợp quy định tại các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự về chủ thể và thời hạn kháng cáo nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S- bc2 tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của các bị cáo tại cấp sơ thẩm, lời khai của bị hại và những người làm chứng, phù hợp các vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án- Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 06/5/2019, tại khu vực tòa nhà ... (địa chỉ: .., thành phố Hà Nội) sau khi biết rõ anh ... Chul... (quốc tịch: Hàn Quốc) để quên tài sản trên xe taxi do Phạm Văn L- BC1 quản lý thì Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S- bc2 đã cố ý chiếm giữ trái phép tài sản có trị giá là 155.818.000 đồng; mặc dù chị Nguyễn Thị H... (bạn gái của anh ... Chul...) đã nhiều lần gọi điện thoại, yêu cầu trả lại tài sản nhưng L- BC1 và S- bc2 không trả lại tài sản cho chủ sở hữu thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 09/5/2019 và thu giữ vật chứng. Hành vi của Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S- bc2 đã phạm tội Chiếm giữ trái phép tài sản; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 176 Bộ luật Hình sự; Bản án sơ thẩm quy kết các bị cáo Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S- bc2 theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S- bc2 là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân và gây tâm lý lo lắng đối với người nước ngoài ở Việt Nam nên cần xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Trong đồng phạm, bị cáo Phạm Văn L- BC1 là đối tượng khởi xướng, chủ mưu, tham gia từ đầu và dự kiến sẽ chiếm đoạt phần lớn số tiền đã chiếm giữ trái phép là 145.818.000 đồng (cho bị cáo S- bc2 là 10.000.000 đồng) nên bị cáo L- BC1 có vai trò chủ yếu, phải chịu trách nhiệm chính trong đồng phạm; bị cáo Bùi Văn S- bc2 tích cực thực hành hành vi phạm tội và dự kiến sẽ hưởng lợi là 10.000.000đồng nên bị cáo S- bc2 có vai trò thực hành tích cực trong đồng phạm; về nhân thân, bị cáo L- BC1 có nhân thân tốt và phạm tội lần đầu, bị cáo S- bc2 đã bị xử phạt vi phạm hành chính (ngày 20/9/2018, Ủy ban nhân dân xã ... ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm kỷ luật Đào ngũ theo hình thức phạt tiền là 5.000.000đồng) nhưng bị cáo S- bc2 chưa nộp phạt và chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý hành chính thì tiếp tục tái phạm; các bị cáo đều không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo L- BC1 “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo các điểm i và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo S- bc2 “thành khẩn khai báo” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và đã được Bản án sơ thẩm xem xét, áp dụng cho các bị cáo.

[5] Các bị cáo đã chiếm giữ trái phép tài sản trị giá là 155.818.000 đồng rồi bị Cơ quan điều tra bắt khẩn cấp và thu giữ vật chứng, tài sản nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” theo điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là không chính xác nên Hội đồng xét xử ghi nhận quan điểm của Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa phúc thẩm, sửa về điều luật áp dụng theo hướng không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo. Do bị cáo L- BC1 có vai trò chủ mưu, khởi xướng và chỉ huy trong đồng phạm, bị cáo S- bc2 có nhân thân xấu và trên cơ sở xem xét, đánh giá về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, vai trò và nhân thân của các bị cáo, Bản án sơ thẩm đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc các bị cáo phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng để giáo dục, không cho các bị cáo hưởng án treo, xử phạt bị cáo L- BC1 15 tháng tù và xử phạt bị cáo S- bc2 09 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử ghi nhận quan điểm của Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa, không chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt và hưởng án treo của các bị cáo; giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo, đủ tác dụng để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[6] Theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Cơ quan điều tra đã ban hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và quyết định tạm giữ cùng ngày 09//5/2019 (bút lục 12- 20; 34- 41) đối với các bị cáo; nhưng Cáo trạng và Bản án sơ thẩm đã xác định các bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/5/2019 là không chính xác và không phù hợp các tình tiết khách quan của vụ án; vì vậy, Hội đồng xét xử chỉnh sửa lại thời điểm bị tạm giữ nêu trên nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bị cáo và phù hợp các tình tiết khách quan của vụ án.

[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 343 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.

[9] Theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm thể hiện: Bị hại ... Chul... (quốc tịch: Hàn Quốc) là người nước ngoài, đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam nên vụ án có nhân tố nước ngoài; thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử vụ án được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Về nội dung, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân quận ... đã giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật (theo phân tích tại các mục 2, 3, 4 và 5 của nhận định nêu trên), cấp phúc thẩm có thể bổ sung đươc và nhằm tránh kéo dài thời gian tiến hành tố tụng đối với vụ án nên Hội đồng xét xử xem xét kháng cáo và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật- Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân quận ... cần rút kinh nghiệm để tránh lặp lại trong các vụ án khác.

[10] Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự,

1. Không chấp nhận kháng cáo, sửa quyết định về điều luật áp dụng và giữ nguyên quyết định về tội danh, hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 207/2019/HS- ST ngày 17/9/2019 của Toà án nhân dân quận ..., thành phố Hà Nội đối với các bị cáo Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S-bc2:

* Áp dụng khoản 1 Điều 176, các điểm i và s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Phạm Văn L- BC1 15 (mười lăm) tháng tù về tội Chiếm giữ trái phép tài sản; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ (từ ngày 09/5/2019 đến ngày 17/5/2019).

* Áp dụng khoản 1 Điều 176, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Bùi Văn S- bc2 09 (chín) tháng tù về tội Chiếm giữ trái phép tài sản; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ (từ ngày 09/5/2019 đến ngày 17/5/2019).

2. n cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Phạm Văn L- BC1 và Bùi Văn S- bc2, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. c quyết định khác của Bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

509
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 904/2019/HS-PT ngày 21/11/2019 về tội chiếm giữ trái phép tài sản

Số hiệu:904/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về