Bản án 90/220/HS-ST ngày 04/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 90/220/HS-ST NGÀY 04/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 04 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 99/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. VÕ NHƯ H, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Sinh ngày 06/12/1993 tại tỉnh T.

Nơi ĐKHKTT: Thôn 7, xã T, huyện G, tỉnh T;

Chỗ ở hiện nay: Phòng trọ số 82, đường Đ, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 12/12.

Nghề nghiệp: Sửa xe.

Con ông: Võ T (sinh năm 1973) và bà Võ Thị S (sinh năm 1972) cả hai đều còn sống.

Gia đình có bốn anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình. Bị cáo có vợ là bà Nguyễn Thị Thế L (sinh năm 1994) và 1 con sinh năm 2018.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 01/3/2019, bị Công an phường Hải Châu II, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/01/2020. Có mặt tại phiên tòa.

2. LÊ T, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Sinh ngày 02/5/2000 tại tỉnh T.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Xuân Thượng, xã Linh Hải, huyện G, tỉnh T.

Chỗ ở hiện nay: Phòng trọ số 82, đường Đ, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo.

Trình độ văn hóa: 12/12.

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông.

Con ông: Lê C (sinh năm 1972) và bà Hoàng Thị G (sinh năm 1976). Gia đình có bốn anh em, bị can là con thứ hai trong gia đình.

Tiền án, tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 01/01/2020. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Như H và Lê T đã mua ma túy của một người tên Trâu ở tỉnh T (không rõ nhân thân, lai lịch) để có ma túy T sử dụng cho bản thân đồng thời H và T bán lại kiếm lời tiêu xài chung, H là người nhắn tin qua mạng xã hội Zalo cho Trâu để thỏa thuận việc mua bán ma túy, còn T là người bỏ tiền ra để mua ma túy. Cụ thể:

Lần 1: Vào ngày 23/12/2019, Võ Như H và Lê T thống nhất mua 100 viên ma túy hồng phiến của người tên Trâu với giá 2.500.000 đồng (số tiền này là của T) và hẹn giao dịch tại đường N, quận L, thành phố Đà Nẵng. Khoảng 18 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade BKS: 74C1- 341.13 chở T đi đến đường N, thành phố Đà Nẵng nhận ma túy của người thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch). Số ma túy này T đem về cất giấu và sử dụng hết.

Lần 2: Vào ngày 28/12/2019, sau khi thống nhất với nhau, Võ Như H sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus màu hồng gắn sim số 0855858345 vào tài khoản Zalo của mình để nhắn tin cho Trâu hỏi mua 200 viên ma túy hồng phiến với giá 7.000.000 đồng thì Trâu đồng ý. Lúc này H đang ở T nên nói Lê T chuyển cho H 7.000.000 đồng để mua ma túy thì T đồng ý. H thỏa thuận chuyển tiền qua Ví điện tử momo cho Trâu, còn T liên hệ với Trâu hẹn địa điểm nhận ma túy. Sau đó, T sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen có gắn sim số 0582493973 vào tài khoản Zalo của mình nhắn tin cho Trâu. Đến tối ngày 29/12/2019, T đi một mình đến đường Nguyễn Hữu Thọ, thành phố Đà Nẵng (không rõ địa chỉ cụ thể) theo chỉ dẫn của Trâu để nhận ma túy từ một người (không rõ nhân thân, lai lịch) trên xe ô tô (không rõ nhãn hiệu và biển số). Sau khi nhận gói ma túy, T đem về phòng trọ ở địa chỉ số 82 Đ, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng, T mở gói ma túy ra đếm được 195 viên ma túy hồng phiến rồi phân chia ra bằng cách cho vào mỗi đoạn ống hút nhựa, mỗi đoạn khoảng 10 viên rồi đem cất giấu. 195 viên ma túy mua được của Trâu, T dùng để sử dụng và cùng với H bán lại cho người khác, cụ thể:

- Lần 1: Vào chiều ngày 31/12/2019, có một người nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) liên lạc vào số điện thoại 0359004246 của T được lắp trong điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 103 của H, hỏi mua 05 viên ma túy hồng phiến với giá 500.000 đồng. Sau đó, Lê T sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade, biển số 74C1-341.13 của H đi đến đường M, thành phố Đà Nẵng (không rõ địa chỉ cụ thể) để bán 05 viên ma túy hồng phiến cho người thanh niên này. Số tiền bán được T và H tiêu xài chung.

- Lần 2: Khoảng 13 giờ ngày 01/01/2020, có một người nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) liên lạc vào số điện thoại 0359004246 hỏi mua 02 viên ma túy hồng phiến với giá 250.000 đồng. Sau đó, H bán 02 viên ma túy hồng phiến cho người thanh niên này tại trước phòng trọ số 82 đường Đ, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng.

- Lần 3: Khoảng 15 giờ ngày 01/01/2020 có một người (không rõ nhân thân, lai lịch) liên lạc vào số điện thoại 0359004246, hỏi mua 20 viên ma túy hồng phiến với giá 2.100.000 đồng và hẹn giao ma túy ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng (không rõ địa chỉ cụ thể). Lúc này vì T đang ngủ nên H đã nghe máy, cả hai thống nhất H đi bán ma túy. H bỏ 01 ống nhựa chứa 20 viên ma túy hồng phiến vào bên trong áo khoác da mà H cất trước đó rồi điều khiển xe mô tô BKS: 74C1-341.13 sang quận Sơn Trà để bán ma túy. Đến 16 giờ 15 phút ngày 01 tháng 01 năm 2020 tại trước số nhà 117 đường L, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, lực lượng Phòng chống ma túy và tội phạm Đồn Biên phòng Phú Lộc, thành phố Đà Nẵng phát hiện, bắt quả tang và thu giữ trong ống tay áo khoác màu đen bên trái Võ Như H đang mặc một ống nhựa màu đỏ kích thước 0,5cm x 14cm bên trong có chứa 20 viên nén màu hồng kích thước: 0,2cm x 0,2cm, niêm phong ký hiệu G1.

Lúc 17 giờ 30 phút ngày 01/01/2020, Đồn Biên phòng Phú Lộc tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê T và khám xét khẩn cấp nơi ở của Võ Như H và Lê T tại số 82 đường Đ, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng thu giữ:

- Phía sau tivi trong phòng trọ có 01 ống nhựa màu trắng đục (kích thước:

0,5cm x 0,5cm) dán kín hai đầu, bên trong chứa 01 viên nén hình tròn, màu hồng.

- Dưới chân bàn trong phòng trọ có 01 ống nhựa trong suốt có sọc trắng (kích thước: 8cm x 0,5cm) dán kín hai đầu, bên trong chứa 10 viên nén hình tròn, màu hồng, có in chữ “WY”.

- Phía sau gương trong nhà tắm có 01 ống nhựa, màu trắng đục (kích thước:

4cm x 0,5cm) dán kín hai đầu, bên trong chứa 15 viên nén hình tròn, màu hồng, có in chữ “WY”.

Tất cả 26 viên nén trên được niêm phong kí hiệu G2. Trong đó: 01 viên ma túy hồng phiến thu giữ phía sau tivi là do Lê T cất giấu, 25 viên ma túy hồng phiến còn lại thu giữ tại phòng trọ do Võ Như H cất giấu.

Tổng cộng thu giữ của H và T 46 viên ma túy hồng phiến.

Lê T khai nhận sử dụng ma túy hồng phiến với số lượng nhiều viên (không xác định rõ số lượng).

* Bản kết luận giám định số: 25/GĐ-MT ngày 05/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Viên nén hình tròn, màu hồng, kí hiệu WY, được niêm phong trong hai bì thư ký hiệu G1, G2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng mẫu viên nén G1 : 2,025 gam ; khối lượng mẫu viên nén G2 : 2,700 gam. Tổng khối lượng mẫu viên nén G1 và G2 là : 4,725 gam.

* Vật chứng tạm giữ:

- 01 bì niêm phong đựng toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số: 25/GĐ-MT ngày 05/01/2020, có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade, biển số 74C1-341.13 kèm theo giấy đăng ký xe mô tô. Qua xác minh xe thuộc sở hữu của Võ Như H.

- 01 giấy phép lái xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Như H.

- 01 giấy phép lái xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê T.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 103, gắn sim số 0359004246 (Sử dụng để liên lạc mua bán ma túy).

- 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu hồng, số Imei 353292070140575, có gắn sim số 0855858345 thu giữ của Võ Như H (H sử dụng liên lạc thỏa thuận mua bán ma túy với người tên Trâu qua Zalo) - 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, số Imei 355358080447645, có gắn sim số 0582493973 thu giữ của Lê T (T sử dụng liên lạc với người tên Trâu hẹn địa điểm giao nhận ma túy qua Zalo) - Số tiền 5.000.000 đồng (Võ Như H sử dụng vào mục đích cá nhân).

- Số tiền 6.000.000 đồng (Lê T sử dụng vào mục đích cá nhân).

Kết quả thử nước tiểu: Lê T dương tính với chất ma túy tổng hợp, Võ Như H âm tính.

Nguyên nhân dẫn đến việc Võ Như H và Lê T phạm tội là do có lối sống buông thả, nghiện hút ma túy, nợ nần nên cả hai đã thống nhất mua bán ma túy để nhằm mục đích sử dụng, vừa bán kiếm lời.

Quá trình điều tra, Lê T khai nhận hành vi phạm tội như trên. Đối với Võ Như H có nhiều nội dung khai báo gian dối và thay đổi lời khai ban đầu.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị HĐXX căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Võ Như H và Lê T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng: Điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Võ Như H mức án từ 8 (tám) năm đến 9 (chín) năm tù.

Áp dụng: Điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự; điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Lê T mức án từ 7 (năm) 6 (sáu) tháng đến 8 (tám) năm 6 (sáu) tháng tù.

Phạt bổ sung mỗi bị cáo 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý tang vật vụ án:

- Tịch thu và tiêu hủy Mẫu vật là ma túy hoàn trả sau giám định.

- Tịch thu, sung quỹ nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade, biển số 74C1-341.13 kèm theo giấy đăng ký xe mô tô của Võ Như H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 103, gắn sim số 0359004246 của Võ Như H; 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu hồng, số Imei 353292070140575, có gắn sim số 0855858345 thu giữ của Võ Như H; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, số Imei 355358080447645, có gắn sim số 0582493973 thu giữ của Lê T.

- Trả lại cho bị cáo Võ Như H 01 giấy phép lái xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Như H và số tiền 5.000.000 đồng nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo Lê T 01 giấy phép lái xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê T và số tiền 6.000.000 đồng nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Võ Như H và Lê T đã 02 lần mua ma túy của người tên Trâu (không rõ nhân thân, lai lịch) vào các ngày 23/12/2019 và 29/12/2019, tổng số lượng 295 viên ma túy hồng phiến với giá 9.500.000 đồng, trong đó H là người nhắn tin qua mạng xã hội Zalo cho Trâu để thỏa thuận việc mua bán ma túy, còn T là người bỏ tiền ra để mua ma túy. Với số ma túy trên, T dùng để sử dụng cho bản thân, đồng thời cùng với H bán cho người khác để kiếm lời, người mua ma túy liên lạc qua số điện thoại 0359004246 của T được lắp trong điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 103 của H, cụ thể:

- Lần 1: Vào chiều ngày 31/12/2019, T sử dụng xe mô tô BKS: 74C1- 341.13 của H, đi bán 05 viên ma túy hồng phiến cho một thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) trên đường M với giá 500.000 đồng, số tiền có được T và H tiêu xài chung.

- Lần 2: Khoảng 13 giờ ngày 01/01/2020, H bán 02 viên ma túy hồng phiến cho người nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) tại trước phòng trọ số 82 đường Đ, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng với giá 250.000 đồng.

- Lần 3: Vào lúc 16 giờ 15 phút ngày 01/01/2020 tại trước số nhà 117 đường L, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, trong lúc Võ Như H đang trên đường đem 20 viên ma túy hồng phiến đi bán tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng thì bị lực lượng Phòng chống ma túy và tội phạm Đồn Biên phòng Phú Lộc, thành phố Đà Nẵng phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 2,025 gam ma túy, loại Methamphetamine. Khám xét khẩn cấp nơi ở của T và H số 82 đường Đ, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng thu giữ thêm 2,700 gam ma túy, loại Methamphetamine mà H và T cất giấu nhằm mục đích bán lại kiếm lời. Tổng khối lượng ma túy thu giữ của H và T là 4,725 gam.

[2] Hành vi của Võ Như H và Lê T đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Các bị cáo mua ma túy về sử dụng cho bản thân rồi chia nhỏ nhằm mục đích bán lại để kiếm lời nên cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Trong vụ án này, các bị cáo đã thực hiện 02 lần mua và 3 lần bán nên bị áp dụng thêm tình tiết định khung tăng nặng do phạm tội nhiều lần được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Cáo trạng số 103/CT-VKS ngày 09/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê truy tố đối với các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Các bị cáo là người trưởng thành, có trình độ học vấn, bản thân bị cáo H từng sử dụng ma túy và từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này nên bị cáo phải nhận thức được tác hại nghiêm trọng của ma túy đối với bản thân và cộng đồng để tránh phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội. Các bị cáo đều là những thanh niên có sức khỏe, đang trong độ tuổi lao động, đáng lẽ ra các bị cáo phải ý thức được mình nên làm những gì để có ích cho gia đình, xã hội nhưng lại sớm đi vào con đường phạm tội, mua ma túy về sử dụng và bán để kiếm thu nhập cho bản thân. Riêng về ma túy Nhà nước đã có chính sách quản lý độc quyền nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo phải bị xử phạt, cần cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét hành vi của từng bị cáo trong vụ án thì thấy:

Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. H là người khởi xướng việc mua ma túy cho T về sử dụng từ đó nảy sinh ý hành vi bán ma túy, trong đó H là người liên lạc để mua bán ma túy và T là người bỏ tiền ra để mua ma túy, cả hai cùng chia nhau lợi nhuận từ việc bán ma túy nên trong vụ án này H đóng vai trò chính. Bản thân bị cáo H đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo để các bị cáo có điều kiện cải tạo tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Đối với bị cáo Lê T, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Trong quá trình điều tra, T đã khai ra lần bán ma túy trước đó. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với bị cáo Võ Như H có nhân thân xấu, trong quá trình điều tra, bị cáo đã khai báo không thành khẩn, thay đổi lời khai. Tuy nhiên tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với các vật chứng là 01 bì niêm phong đựng toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 25/GĐ-MT ngày 05/01/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng đã không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade, biển số 74C1-341.13, số khung:

084185, số máy: 1084205 kèm theo giấy đăng ký xe mô tô thuộc sở hữu của Võ Như H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 103, gắn sim số 0359004246 của Võ Như H; 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu hồng, số Imei 353292070140575 có gắn sim số 0855858345 thu giữ của Võ Như H; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, số Imei 355358080447645, có gắn sim số 0582493973 thu giữ của Lê T là vật chứng liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Các vật chứng sau đây không chứng minh được liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho chủ sở hữu theo điểm b khoản 3 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

+ 01 giấy phép lái xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Như H;

+ 01 giấy phép lái xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê T;

+ Số tiền 5.000.000 đồng (Võ Như H sử dụng vào mục đích cá nhân) + Số tiền 6.000.000 đồng (Lê T sử dụng vào mục đích cá nhân) [7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê T, Công an quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật.

[8] Đối với đối tượng tên Trâu (Không rõ nhân thân, lai lịch) đã bán ma túy cho H và T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau nên HĐXX không xem xét.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ.

[10] Xét các đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm Sát tại phiên tòa hôm nay là phù hợp pháp luật.

[11] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Võ Như H;

Căn cứ vào điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê T;

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố bị cáo Võ Như H và bị cáo Lê T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” 3. Xử phạt bị cáo Võ Như H 08 (tám) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bị bắt tạm giam 01/01/2020. Phạt tiền bị cáo Võ Như H 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

Xử phạt bị cáo Lê T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bị bắt tạm giam 01/01/2020. Phạt tiền bị cáo Lê T 6.000.000đ (Sáu triệu đồng).

4. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng gồm: 01 bì niêm phong đựng toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 25/GĐ-MT ngày 05/01/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng;

- Tịch thu, nộp vào ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade, biển số 74C1-341.13, số khung: 084185, số máy: 1084205 kèm theo giấy đăng ký xe mô tô thuộc sở hữu của Võ Như H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 103, gắn sim số 0359004246 của Võ Như H; 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu hồng, số Imei 353292070140575 có gắn sim số 0855858345 thu giữ của Võ Như H; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, số Imei 355358080447645, có gắn sim số 0582493973 thu giữ của Lê T.

- Trả lại cho Võ Như H: 01 giấy phép lái xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Như H và số tiền 5.000.000 đồng nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho Lê T: 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê T và số tiền 6.000.000 đồng nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

Các vật chứng nói trên Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng hiện đang tạm giữ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21 tháng 7 năm 2020 và Biên lai thu tiền số 007413 ngày 21 tháng 7 năm 2020.

5. Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Võ Như H, Lê T, mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

6. Người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/220/HS-ST ngày 04/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/220/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về