Bản án 90/2021/DS-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 90/2021/DS-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 37/2021/TLST-DS ngày 22 tháng 02 năm 2021 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2021/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần SGTT (S).

Địa chỉ: 266 – 268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:

- Bà Nguyễn Đức Thạch D. Là người đại diện theo pháp luật của S (Tổng Giám đốc).

- Ông Trần Minh S – Giám đốc S Chi nhánh An Giang. Địa chỉ: 333 Đ, phường Q, thành phố X, tỉnh An Giang. Là người đại diện theo ủy quyền. Giấy ủy quyền số 1186/2020/GUQ-PL, ngày 07/05/2020 của Tổng Giám đốc về việc ủy quyền ký kết các hợp đồng và thẩm quyền tham gia tố tụng.

- Ông Phạm Thái B – Phó phòng giao dịch Long Xuyên – Chi nhánh An Giang. Là người đại diện theo ủy quyền. Giấy ủy quyền ngày 14/12/2020 của Giám đốc S Chi nhánh An Giang; có mặt.

2. Bị đơn: Bà Đặng Thị L, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Số 266/1C, đường V, khóm 6, phường L, thành phố X, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 14/2/2020 của Ngân hàng Thương mại Cổ phần SGTT (S), quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Phạm Thái B trình bày:

Ngày 06/01/2020, bà Đặng Thị L có vay tín chấp tại S – Chi nhánh An Giang – Phòng giao dịch Long Xuyên số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Căn cứ vào Hợp đồng cho vay kiêm giấy nhận nợ (Cho vay tiêu dùng không áp dụng biện pháp bảo đảm), số LD2000600924 ngày 06/01/2020 được ký kết giữa bà L với đại diện hợp pháp của S nên vào ngày 06/01/2020, S đã giải ngân cho bà L vay số tiền là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng); mục đích vay: Tiêu dùng; thời hạn vay 02 năm; lãi suất cho vay trong hạn là 24%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.

Sau khi vay, bà L chỉ thanh toán được số tiền 14.245.833 đồng (Mười bốn triệu hai trăm bốn mươi lăm nghìn tám trăm ba mươi ba đồng) thì ngưng, không tiếp tục thanh toán lãi cũng như thanh toán vốn mặc cho S nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở tạo điều kiện để bà L trả nợ. Do đó, ngày 14/12/2020, S có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà L có nghĩa vụ thanh toán cho S số tiền còn nợ gồm: 21.033.054 đồng (Hai mươi mốt triệu không trăm ba mươi ba nghìn không trăm năm mươi bốn đồng); trong đó Nợ gốc là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), Nợ lãi là 1.033.054 đồng (Một triệu không trăm ba mươi ba nghìn không trăm năm mươi bốn đồng); đồng thời yêu cầu bà L tiếp tục trả lãi phát sinh cho đến khi thanh toán nợ xong.

Bị đơn của vụ án là bà Đặng Thị L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập bà L đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ hai; triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, không rõ lý do.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, - Người đại diện hợp pháp của S là ông B vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu như đã trình bày trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án.

- Bị đơn là bà Đặng Thị L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Ngân hàng Thương mại Cổ phần SGTT (S) khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Đặng Thị L phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền vay còn nợ theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết; bị đơn bà L không có đăng ký kinh doanh nên quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS).

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bà L với tư cách là bị đơn của vụ án có nơi cư trú tại số 266/1C, đường V, khóm 6, phường L, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

[1.3] Bị đơn của vụ án là bà L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà L là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS.

[2] Về nội dung:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ vụ án mà nguyên đơn là S cung cấp, căn cứ vào lời trình bày của người đại diện hợp pháp của S là ông Phạm Thái B trong quá trình Tòa án giải quyết và tại phiên tòa; cho thấy, vào ngày 06/01/2020, bà L có ký kết với S – Chi nhánh An Giang – Phòng giao dịch Long Xuyên vay tín chấp theo Hợp đồng cho vay kiêm giấy nhận nợ, số LD2000600924 ngày 06/01/2020 để vay số tiền là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Quá trình thực hiện hợp đồng, bà L chỉ thanh toán cho S được số tiền vốn và lãi là 14.245.833 đồng (Mười bốn triệu hai trăm bốn mươi lăm nghìn tám trăm ba mươi ba đồng) thì ngưng nên vào ngày 14/12/2020, S có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên yêu cầu bà L có nghĩa vụ thanh toán cho S số tiền vay còn nợ gồm: 21.033.054 đồng (Hai mươi mốt triệu không trăm ba mươi ba nghìn không trăm năm mươi bốn đồng); trong đó Nợ gốc là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), Nợ lãi là 1.033.054 đồng (Một triệu không trăm ba mươi ba nghìn không trăm năm mươi bốn đồng); đồng thời S yêu cầu bà L tiếp tục trả lãi phát sinh cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp”. Đối chiếu với quy định này thì S đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình. Ngược lại, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng bị đơn là bà L vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không tham dự phiên tòa; không cung cấp bất kỳ tài liệu, chứng cứ để chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 91 BLTTDS. Như vậy, đã có căn cứ xác định Hợp đồng cho vay kiêm giấy nhận nợ, số LD2000600924 ngày 06/01/2020 của S mà bà L với đại diện hợp pháp của S ký kết là có thật; hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định tại Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, do bà L đã không thực hiện đúng thỏa thuận theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết nên S khởi kiện yêu cầu bà L có trách nhiệm thanh toán cho S số tiền tổng cả vốn lẫn lãi tạm tính đến ngày 28/5/2021 là 25.092.000 đồng (Hai mươi lăm triệu không trăm chín mươi hai nghìn đồng); trong đó: Nợ gốc 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), Nợ lãi 5.092.000 đồng (Năm triệu không trăm chín mươi hai nghìn đồng); đồng thời S yêu cầu tính lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết là phù hợp với quy định tại Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 nghĩ nên chấp nhận.

[3] Về án phí: Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Yêu cầu khởi kiện của S được chấp nhận toàn bộ nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả cho S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.628.000 đồng (Một triệu sáu trăm hai mươi tám nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007460, ngày 22/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên.

Bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ trả nợ là 25.092.000 đồng x 5% = 1.254.600 đồng, làm tròn 1.255.000 đồng (Một triệu hai trăm năm mươi lăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 463 và Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Khoản 14, khoản 16 Điều 4; khoản 2 Điều 91; Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là S.

Buộc bị đơn là bà Đặng Thị L phải có nghĩa vụ thanh toán cho S (do S - Chi nhánh An Giang đại diện nhận) tổng số tiền cả vốn lẫn lãi tính đến ngày 28/5/2021 là 25.092.000 đồng (Hai mươi lăm triệu không trăm chín mươi hai nghìn đồng); trong đó: Nợ gốc là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), Nợ lãi là 5.092.000 đồng (Năm triệu không trăm chín mươi hai nghìn đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thanh toán theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bà Đặng Thị L phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Án phí:

Bà Đặng Thị L phải nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch là 1.255.000 đồng (Một triệu hai trăm năm mươi lăm nghìn đồng).

S không phải chịu án phí. Hoàn trả cho S (do S Bank - Chi nhánh An Giang đại diện nhận) số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.628.000 đồng (Một triệu sáu trăm hai mươi tám nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007460, ngày 22/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2021/DS-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:90/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về