Bản án 90/2020/HS-ST ngày 09/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 90/2020/HS-ST NGÀY 09/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở UBND phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 79/2020/HSST ngày 19 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Văn T, sinh ngày 21 tháng 7 năm 1981 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn T - xã T - huyện Lập Thạch - tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn M và bà Đỗ Thị C; có vợ là Vũ Thị Q và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 42/2005/HSST ngày 12/10/2005 của Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xử phạt Bùi Văn T 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ra trại ngày 07/8/2006. Án phí thi hành xong ngày 27/4/2006; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/4/2020 đến nay(có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Minh N, sinh năm 1986; Trú tại: tổ 8 phường Xuân Hòa, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 55 phút ngày 01/04/2020, tại đường Ngô Quyền, khu hành chính 10, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, công an phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên kiểm tra hành chính, phát hiện Bùi Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy (Heroine) mục đích để sử dụng cho nhu cầu nghiện hút của bản thân.

Thu giữ tại tay phải của T 02 gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng (T khai là ma tuý heroin vừa mua với giá 360.000đ để sử dụng cho bản thân), niêm phong, ký hiệu A1; tạm giữ của T 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, BKS:

88K3 -1060 đã cũ, đã qua sử dụng.

Ngày 01/04/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Vĩnh Yên Quyết định trưng cầu giám định số 158 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định chất bột, cục màu trắng trong mẫu ký hiệu A1 thu giữ của Bùi Văn T. Tại bản kết luận giám định số 715/KLGĐ ngày 05/04/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,5955g (Không phảy năm chín năm năm gam, không kể bao bì). Khối lượng Heroine trong 0,5955 gam mẫu là 0,1915g (không phảy một chín một năm gam)”. Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định gồm 0,5531g mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong kín trong một bao gói giấy “MẪU TRẢ”.

Quá trình điều tra xác định: Do được một người nghiện ma túy (không nhớ cụ thể người nào) cho biết địa điểm mua ma túy tại đường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên nên khoảng 17 giờ ngày 01/04/2020, Tú một mình điều khiển xe máy BKS: 88K3 – 1060 đến ngôi nhà cấp 4 trong một ngõ nhỏ đường Ngô Quyền thuộc phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên để tìm mua ma túy về sử dụng (T không nhớ rõ là ngõ nào, ngôi nhà có vị trí, đặc điểm gì). Quá trình mua bán ma túy, T đưa 360.000 đồng qua khe cửa sổ ngôi nhà này thì có một người cầm tiền rồi đẩy qua khe cửa 02 gói ma túy cho T, không trao đổi bằng lời nói, không nhìn thấy mặt nên không biết đặc điểm giới tính, nhân thân, lai lịch người này. Sau khi mua được ma tuý, T cầm gói ma tuý ở tay phải rồi điều khiển xe máy đi tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện.

Tại bản Cáo trạng số: 90/CT-VKSNDTPVY ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Bùi Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Tú từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp [2]. Bị cáo Bùi Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thu thập khách quan, đúng pháp luật, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 17 giờ 55 phút ngày 01/04/2020, tại đường Ngô Quyền, khu hành chính 10, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Bùi Văn Tú có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy (Heroine) mục đích để sử dụng cho nhu cầu nghiện hút của bản thân thì bị tổ công tác công an phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên kiểm tra hành chính, phát hiện, lập biên bản sự việc. Tang vật thu giữ của T 02 gói giấy màu trắng bên trong chứa 0,5595g chất bột màu trắng qua giám định xác định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroine. Khối lượng Heroine trong 0,5595g mẫu là 0,1915g.

Hành vi của T đã đủ yếu tố để cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.

[2]. Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Ma tuý là mối hiểm hoạ cho mỗi gia đình và toàn xã hội, làm huỷ hoại sức khoẻ, suy giảm giống nòi, gây suy thoái đạo đức, lối sống, nhân phẩm của con người. Ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật, giết người…Do vậy, cần phải xử phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong tình hình hiện nay.

[3]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nhận thức được hành vi của mình là phạm pháp nhưng do lối sống buông thả đã thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xét xử về hành vi “Trộm cắp tài sản” song bị cáo không lấy đó làm bài học sửa đổi, hoàn lương trở về cuộc sống mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử cũng cho bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đó là căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật và yên tâm cải tạo. Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, cần chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung, xét thấy: Bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Đối với đối tượng bán ma túy cho T, quá trình điều tra không xác định được là ai, ở đâu nên Cơ quan CSĐT công an thành phố Vĩnh Yên tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau.

[6]. Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, BKS:

88K3 – 1060 tạm giữ của Bùi Văn T, quá trình điều tra xác định xe máy đứng tên chủ sở hữu là của anh Hoàng Minh N, cháu họ của T. Anh N cho T mượn chiếc xe máy BKS: 88K3 – 1060 để đi lại và không biết việc Tú sử dụng chiếc xe máy trên để đi mua ma túy. Ngày 03/06/2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên đã trả lại cho anh Hoàng Minh N chiếc xe máy trên, anh Ngọc nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

Đối với 0,5531g ma túy Heroine và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.

[7]. Về án phí: Bị cáo Bùi Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự .

Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam 02/4/2020.

Căn cứ khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2, 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

+ Tịch thu tiêu hủy 0,5531g ma túy Heroine và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định (Vật chứng có đặc điểm như biên bản bàn giao vật chứng ngày 22/6/2020 của cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Vĩnh Yên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Yên).

Bị cáo Bùi Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2020/HS-ST ngày 09/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về