Bản án 90/2020/HNGĐ-ST ngày 05/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 90/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 05 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 233/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 05 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 06 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: bà Huỳnh Thị Ngọc H, sinh năm: 1988. (có mặt).

Địa chỉ: số 727/3, tổ 7, khóm K, phường M, thành phố X, tỉnh An Giang.

Chỗ ở hiện nay: số 1031/53, khóm K, phường K, thành phố X, tỉnh An Giang.

Bị đơn: ông Nguyễn Huỳnh P, sinh năm: 1980. (vắng mặt).

Địa chỉ: số 727/3, tổ 7, khóm K, phường M, thành phố X, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và tại phiên tòa nguyên bà Huỳnh Thị Ngọc H trình bày: bà và ông P sống chung vào năm 2007, hôn nhân do tự tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, vợ chồng có đăng ký kết hôn vào năm 2008, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn về tiền bạc và do ông P thường xuyên đi nhậu, cờ bạc, đánh số đề về nhà chửi và đánh bà nhiều lần, vợ chồng thường xuyên cự cãi, vợ chồng không còn sống chung từ tháng 5 năm 2019 (âm lịch) cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn nên bà yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Huỳnh P.

- Về con chung: bà H và ông P có 02 con chung tên Ông P Nguyễn Huỳnh Nhu Y, sinh ngày 07/06/2007 và Nguyễn Huỳnh T, sinh ngày 08/05/2009, hiện 02 con chung đang sống chung với bà H. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay bà H làm công nhân đông lạnh tại Công ty A tại Trà Ôn, thu nhập mỗi tháng 10.000.000 đồng đủ khả năng nuôi 02 con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Nguyễn Huỳnh P vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không thể ghi nhận ý kiến của ông P đối với yêu cầu khởi kiện của bà H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Bà Huỳnh Thị Ngọc H yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Huỳnh P. Ông P có nơi cư trú tại phường M, thành phố X, tỉnh An Giang. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn ông Nguyễn Huỳnh P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhung vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông P theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: bà Huỳnh Thị Ngọc H và ông Nguyễn Huỳnh P xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Khi vợ chồng chung sống thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không phù hợp, bất đồng về quan điểm, trong quá trình giải quyết vụ án bà H xác định không còn tình cảm với ông P, giữa vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn nên bà vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn, ông P cũng không có ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà H.

Hội đồng xét xử nhận thấy, hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện, bà H xác định không thể tiếp tục chung sống cùng với ông P, hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được và vợ chồng không còn chung sống với nhau từ năm 2019 đến nay, mâu thuẫn kéo dài, giữa vợ chồng không còn thực hiện các quyền và nghĩa vụ cũng như không cố gắng hàn gắn, duy trì cuộc sống hôn nhân. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: có 02 con chung tên Ông P Nguyễn Huỳnh Nhu Y, sinh ngày 07/06/2007 và Nguyễn Huỳnh T, sinh ngày 08/05/2009. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy từ khi bà H và ông P không còn chung sống với nhau thì các cháu sống chung với bà H cho đến nay, vẫn phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án thì ông P cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu nuôi dưỡng con chung của bà H, cháu Y, cháu T sống với bà H đã ổn định về chỗ ở, điều kiện sinh hoạt, học tập. Mặt khác, tại biên bản ghi lời khai ngày 26/5/2020, cháu Y, cháu T cũng có nguyện vọng được sống với bà H. Do đó, để đảm bảo cuộc sống ổn định cho các cháu, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Y, cháu T cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: không xem xét, giải quyết.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: ghi nhận ý kiến của bà H trình bày không có nên không đề cập giải quyết.

[7] Về án phí: bà H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Các Điều 28, 35, 39, 144, 147, 227, 228, 235, 271, 273, 278 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Ngọc H.

- Về quan hệ hôn nhân: bà Huỳnh Thị Ngọc H được ly hôn ông Nguyễn Huỳnh P. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 110, ngày 21/5/2008 do Ủy ban nhân dân phường Mỹ Hòa, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: bà Huỳnh Thị Ngọc H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Ông P Nguyễn Huỳnh Như Y, sinh ngày 07/06/2007 và Nguyễn Huỳnh T, sinh ngày 08/05/2009.

Ông Nguyễn Huỳnh P không trực tiếp nuôi con chung nhưng ông có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản ông P thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về cấp dưỡng nuôi con: không xem xét, giải quyết.

- Về tài sản chung: không xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: ghi nhận bà Huỳnh Thị Ngọc H xác định không có nợ chung, nhung sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà Huỳnh Thị Ngọc H và ông Nguyễn Huỳnh P vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: bà Huỳnh Thị Ngọc H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhung được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000944 ngày 06/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Bà H đã nộp xong.

Bà Huỳnh Thị Ngọc H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Ông Nguyễn Huỳnh P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2020/HNGĐ-ST ngày 05/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:90/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về