Bản án 90/2019/HS-ST ngày 15/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 90/2019/HS-ST NGÀY 15/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 89/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Trương T (Tên gọi khác: Năm s), sinh năm 1991 tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Ấp 10, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 04/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương H, sinh năm 1963 và bà Phạm Thị N, sinh năm: 1961; Bị cáo là con thứ 3 trong gia đình có 04 người con; Có vợ tên Nguyễn Thị Kim A, sinh năm 1991 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2014.

- Tiền án: Ngày 18/10/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm về tội "Cố ý gây thương tích" (Bản án số 104/2018/HSST).

- Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/4/2019 và chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành. (Bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 23 giờ 30 phút ngày 22/4/2019, lực lượng Công an xã Bình An đang tuần tra trên tuyến đường liên ấp thuộc ấp Bàu Tre, xã Bình An, huyện Long Thành phát hiện Trương T đang điều khiển xe mô tô biển số 60N2-0817 chở sau là Nguyễn Thị Kim A có biểu hiện nghi vấn nên dừng xe kiểm tra phát hiện có 01 túi nylon được dán bằng băng keo bên hông phải xe mô tô có kích thước 02x03cm hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy nên tiến hành thu giữ đưa về Công an xã Bình An lập hồ sơ ban đầu.

Quá trình điều tra xác định như sau: Trương T nghiện ma túy từ năm 2016, trung bình khoảng 2-3 ngày Tsử dụng ma túy một lần, nguồn gốc ma túy do T mua của một người tên D không rõ lai lịch địa chỉ ở khu vực ngã tư Lộc An, huyện Long Thành.

Lúc 19 giờ ngày 22/4/2019, T có nhu cầu sử dụng ma túy nên gọi điện thoại cho D để liên hệ mua ma túy sử dụng cho bản thân. Duy đồng ý và hẹn T đến ngã tư xã Lộc An để giao ma túy. Xong T điều khiển xe mô tô biển số 60N2-0817 từ nhà đến ngã tư Lộc An gặp D mua 1 túi ma túy kích thước 02x03cm giá 700.000 đồng. Sau khi mua ma túy, T mang về nhà lấy ra một ít sử dụng chung với vợ là Nguyễn Thị Kim A. Đến 22 giờ cùng ngày, T mang số ma túy còn lại dán vào bên hông phải xe mô tô nhằm mục đích cất giấu sử dụng cho bản thân. Sau đó, Thái điều khiển xe mô tô trên chở chị đi vào nhà bạn ở xã Sông Nhạn, huyện Cẩm Mỹ chơi, khi đi đến ấp Bàu Tre, xã Bình An thì bị bắt quả tang như nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 304/ C09- ĐMT ngày 25 tháng 4 năm 2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,9762 gam, loại: Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ: 01 túi nylon màu trắng được hàn kín kích thước 02x03cm bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy được chuyển đến Chi Cục thi hành án huyện Long Thành đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô biển số 60N2-0817 là phương tiện T sử dụng làm phương tiện phạm tội. Qua xác minh nguồn gốc xe, căn cứ theo số khung, số máy xác định xe trên là của ông Trần Văn C bị mất trộm vào ngày 12/4/2018 tại khu vực ngã tư Dầu iây, huyện Thống Nhất nên Cơ quan điều tra đã giao cho Công an huyện Thống Nhất giải quyết.

Tại bản cáo trạng số 93/CT-VKS ngày 28/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Trương T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị xử phạt bị cáo Trương T mức án từ 20 tháng tù đến 24tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tổng hợp với hình phạt 02 năm tù của bản án 104/2018/HSST ngày 18/10/2018 do bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách.

Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong số 304/PC09- ĐMT/ C.

Đi với người tên D bán ma túy cho T hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Quá trình điều tra, T khai nhận xe mô tô biển số 60N2-0817, số khung: 630BY456341, số máy: 5C63456396 do T mua của người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch giá 4.000.000 đồng. T không biết xe trên do phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý T về hành vi "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có".

Đi với Nguyễn Thị Kim A có hành vi sử dụng ma túy cùng với T nhưng A tự nguyện sử dụng, không bị ép buộc, quá trình điều tra A không biết nguồn gốc ma túy do đâu mà có, không biết việc T dán ma túy vào hông xe để cất giấu nên Cơ quan điều tra không khởi tố, đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra ra quyết định xử lý hành chính đối với A theo quy định.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, bị cáo Trương T khai nhận:

Lúc 19 giờ ngày 22/4/2019, T điều khiển xe mô tô biển số 60N2-0817 gặp người tên D không rõ nhân thân lai lịch mua 01 túi ma túy với giá 700.000 đồng. Sau khi mua ma túy, T mang về nhà lấy ra một ít sử dụng chung với vợ Nguyễn Thị Kim A. Số ma túy còn lại T mang dán vào bên hông phải xe mô tô trên nhằm mục đích cất giấu sử dụng cho bản thân. Sau đó, T điều khiển xe mô tô trên chở chị A đi vào nhà bạn ở xã Sông Nhạn, huyện Cẩm Mỹ chơi, khi đi đến ấp Bàu Tre, xã Bình An thì bị bắt quả tang cùng vật chứng 01 túi nylon đựng ma túy nêu trên có khối lượng 0,9762 gam, loại: Methamphetamine.

Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trương T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo T là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[2] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với ma túy và các chất gây nghiện; gây tác hại xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Ma túy là loại chất gây nghiện nguy hiểm, người sử dụng ma túy sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng đồng thời là nguyên nhân phát sinh những tội phạm khác. Bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội nhưng v n cố tình thực hiện tội phạm.

Bị cáo có nhân thân xấu và đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm về tội "Cố ý gây thương tích" tại Bản án số 104/2018/HSST ngày 18/10/2018. Bị cáo không thi hành bản án tốt mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thuộc trường hợp tái phạm; do đó, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo T bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Cố ý gây thương tích" tại Bản án số 104/2018/HSST ngày 18/10/2018; Do đó, buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt 02 năm tù của bản án nêu trên do bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách và tổng hợp hình phạt với quyết định của bản án này theo quy định của pháp luật hình sự.

[3] Về biện pháp tư pháp, vật chứng vụ án:

Tuyên tịch thu tiêu hủy gói niêm phong số 304/PC09- ĐMT/ C ngày 25/4/2019 chứa ma túy còn lại sau giám định.

Đi với xe mô tô biển số 60N2-0817, số khung: 630BY456341, số máy: 5C63456396 do bị cáo T mua của người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch giá 4.000.000 đồng. T không biết xe trên do phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý T về hành vi "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Xe đã giao cho Công an huyện Thống Nhất giải quyết.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Vấn đề khác: Đối với người tên D bán ma túy cho Thái, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Đi với Nguyễn Thị Kim A có hành vi sử dụng ma túy cùng với T, nhưng A tự nguyện sử dụng, không bị ép buộc, quá trình điều tra A không biết nguồn gốc ma túy do đâu mà có, không biết việc T dán ma túy vào hông xe để cất giấu nên Cơ quan điều tra không khởi tố, đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra ra quyết định xử lý hành chính đối với A theo quy định.

[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp, đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Trương T (Tên gọi khác: Năm s) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trương T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Bị cáo T phải chấp hành hình phạt 02 (hai) năm tù theo Bản án số 104/2018/HSST ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; tổng hợp với hình phạt của bản án này, buộc bị cáo Trương T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 23/4/2019 được trừ đi thời gian tạm giam từ ngày 24/7/2018 đến ngày 24/8/2018 theo bản án số 104/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy gói niêm phong số 304/PC09- ĐMT/ C ngày 25/4/2019 chứa ma túy còn lại sau giám định.

Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành đang tạm giữ theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/7/2019.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trương T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2019/HS-ST ngày 15/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về