Bản án 90/2018/HSST ngày 25/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 90/2018/HSST NGÀY 25/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25/5/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử công khaisơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 85/2018/HSST-TL ngày 18/4/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2018/HSST- QĐ ngày 11 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Trương Văn T, sinh năm 1996; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn N, xã C, huyện Q, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Thổ; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Minh Đ, sinh năm 1950(đã chết) và bà Bùi Thị D, sinh năm 1956; Vợ, con: Chưa có; Tiền án; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 09/01/2018 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh - Có mặttại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 9 giờ ngày 09/01/2018, tại cây xăng thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, Cơ quan Công an đã phát hiện bắt quả tang tại túi quần trước bên trái T đang mặc có 01 gói bọc bằng giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng và tại túi quần trước bên phải T đang mặc có 02 chiếc xilanh bằng nhựa, loại 3ml/cc.

Cơ quan Công an đã tiến hành niêm phong gói chất ma túy thu giữ trên người của T, đưa T về trụ sở Công an xã N để làm việc, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Cùng ngày cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với gói ma túy đã thu giữ của T. Tại Bản kết luận giám định số: 171/KLGĐMT – PC54 ngày 09/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sựCông an tỉnh Bắc Ninh đã kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 (một) gói giấy bạc màu trắng có khối lượng 0,3290 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 43/CT - VKSTD ngày 17/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện T để xét xử đối với bị cáo Trương Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra và phiên tòa bị cáo khai: T đang làm công nhân ghép cốt pha tại thôn D, xã Đ, huyện T là đối tượng sử dụng và lệ thuộc vào chất ma túy từ năm 2013 đến nay.

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 11 giờ ngày 09/01/2018 T đi xe ôm của một người không quen biết đến khu vực C, phường Đ, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh để tìm mua ma túy. Tại đây, T gặp một người thanh niên không quen biết. Qua câu chuyện cả hai biết nhau đều nghiện chất ma túy nên đã rủ nhau góp tiền đi mua ma túy về cùng sử dụng. T đưa cho người thanh niên này 150.000 đồng. Sau đó người thanh niên điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream (T không biết biển kiểm soát của xe) chở T đi đến một ngõ nhỏ (T không biết địa danh) và bảo T đứng trông xe. Người thanh niên đi bộ vào trong ngõ khoảng 10 phút sau quay lại và đưa cho T 01 gói bọc bằng giấy bạc màu trắng bên trong chứa ma túy. T cầm gói ma túy cất giấu vào túi quần trước bên trái rồi ngồi sau xe máy người thanh niên điều khiển đi tìm nơi sử dụng. Khi về đến khu vực cây xăng thôn Đ, xã N, huyện T người thanh niên rẽ vào đổ xăng. T vừa xuống xe đứng chờ thì đúng lúc này lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang. Lợi dụng sơ hở người thanh niên đi cùng T đã điều khiển xe máy bỏ chạy.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du giữ quyền công tố tại phiêntòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Trương Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38;Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt: Bịcáo Trương Văn T từ 15 tháng tù đến 20 tháng tù.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong dán kín, bên ngoài có dấu niêm phong và chữ ký của giám định viên phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Ninh; 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng.

Không áp dụng hình phạt bổ xung là phạt tiền.

Bị cáo không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, và các vấn đề khác. Bị cáo đã nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng của mình là vi phạm pháp luật và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan Cảnh sát điều tra, cũng như tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận trưng cầu giám định và các tài liệu chứng cứ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Bắc Ninh thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trương Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã quy kết.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi đã xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây mất trật trự tại địa phương, gây nhức nhối và dư luận không tốt trên địa bàn.

Trong giai đoạn hiện nay, khi cả xã hội đang ra sức loại bỏ các tệ nạn,trong đó có tệ nạn nghiện hút ma túy ra khỏi đời sống cộng đồng. Trong khi đó bị cáo lại ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực đông người qua lại, điều đó thể hiện ý thức pháp luật kém, coi thường pháp luật. Mặt khác, ma túy là hiểm họa của loài người. Ngoài việc tốn tiền cho cơn nghiện, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, nguy hại hơn việc sử dụng ma túy còn làm lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS trong cộng đồng, làm ảnh hưởng tới giống nòi. Ngoài ra từ ma túy còn gây tới các tệ nạn và hệ lụy xấu khác cho xã hội. Vì vậy, cần có một hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung góp phần làm trong sạch và xóa bỏ tệ nạn trên địa bàn.

Xét nhân thân bị cáo thì thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, tiền án, tiền sự không có. Sau khi phạm tội, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hường tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng tráchnhiệm hình sự.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hộiđồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới giúp bị cáo cải T trở thành công dân có ích cho xã hội.

Bị cáo tàng trữ trái phép ma túy để sử dụng, không có mục đích vụ lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Vật chứng: 01 phong bì thư được niêm phong dán kín, bên ngoài có dấu niêm phong và chữ ký của giám định viên phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Ninh; 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đề nghị của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên toà là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Liên quan trong vụ án có người thanh niên điều khiển xe máy chở T đi mua ma túy, do T không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này ở đâu nên cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định .

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trương Văn T phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38;

Điều 47 Bộ luật hình sự; Các Điều 106, Điều 135, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Xử phạt Trương Văn T 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam09/01/2018.

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong dán kín, bên ngoài có dấu niêm phong và chữ ký của giám định viên phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Ninh; 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng.

(Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 20/4/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).

Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2018/HSST ngày 25/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về