TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HOÀ
BẢN ÁN 90/2017/HSPT NGÀY 20/07/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 20 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 103/2017/HSPT ngày 13/6/2017 đối với các bị cáo Phương Vận A, Phan Hoài Phương N và Trần Minh T do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2017/HSST ngày 11/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Khánh Hòa.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. PHƯƠNG VẬN A (Bợm), sinh năm 1992 tại Khánh Hòa; nơi ĐKNKTT: Thôn C, xã S, huyện D, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; con ông Phương Kỳ Đ (Chết) và con bà Võ Thị Đ (SN 1959); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 29/11/2016; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. PHAN HOÀI PHƯƠNG N, sinh năm 1992 tại Khánh Hòa; nơi ĐKNKTT: Thôn P, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn: 6/12; con ông Ca Văn C và con bà Phan Thị Bích L; vợ Nguyễn Huyền T (SN 1993); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 17/11/2009, Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 73/2009/HSST ngày 17/11/2009). Ngày 09/3/2011, Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Tổng hợp với phần hình phạt 06 tháng tù của Bản án số 73/2009/HSST ngày 17/11/2009, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 01 năm tù. Chấp hành xong hình phạt ngày 10/5/2012. Ngày 30/8/2013, Công an xã Diên Thạch phạt 1.500.000 đồng về hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác; bị bắt tạm giam từ ngày 29/11/2016 đến ngày 24/01/2017 thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
3. TRẦN MINH T, sinh năm 1996 tại Khánh Hòa; nơi ĐKNKTT: Thôn C, xã S, huyện D, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Phụ xe; trình độ học vấn: 6/12; con ông Trần T (SN 1977) và con bà Mai Thị T (SN 1976); tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/8/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã S xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 02/3/2016, trong khi làm việc tại công trình xây dựng Khu nghỉ dưỡng Vinpearl thuộc thôn T, xã C, huyện C, giữa Nguyễn Thanh H và một số công nhân tại đây phát sinh mâu thuẫn. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 03/6/2016, H điện thoại cho Phương Vận A nhờ A rủ người vào đánh lại số công nhân ở Vinpearl. A đồng ý. Sau đó, A rủ thêm Nguyễn Văn B, Trương Văn Tr, Trần Phi H, Trần Minh T, Trần Quốc T, Phan Hoài Phương N cùng mình vào Cam Lâm đánh lại số công nhân Vinpearl. Tất cả đồng ý. A, B ra chợ Thành ở thị trấn D, huyện D mua 05 cây rựa, 02 cây mác bỏ vào bao nylong màu trắng để mang theo. Sau đó, B điều khiển xe mô tô biển số 79T1-0158 chở T và A mang theo bao nylong đựng hung khí, N điều khiển xe mô tô biển số 79D1-26535 chở H và T, Tr điều khiển xe mô tô không rõ biển số (xe mượn của anh Lê Đức V) tất cả cùng đi vào Cam Lâm.
Khi đến ngã 3 Cam Hải thuộc thị trấn Cam Đức, Trung chở Hùng, Tú còn Nam đi đón Huy. Khoảng 17 giờ cùng ngày, cả nhóm tập trung tại vòng xuyến thuộc Đại lộ N thuộc thôn T, xã C. A, Huy, Nam, Hùng, Tú mỗi người cầm 01 cây rựa, B, T mỗi người cầm 01 cây mác, còn T đi tay không. B điều khiển xe chở H, A chạy trước, N điều khiển xe chở T, Tr điều khiển xe chở H, T chạy sau cùng.
Khi đến quán ăn của chị Võ Thị Kim T (đối diện công trình Vinpearl) thấy Lê Minh T, Nguyễn Thành V đang ngồi trong quán, cho rằng anh T, anh V giống số thanh niên mâu thuẫn trước đó. H nói B dừng xe và cùng A cầm rựa, mác xông vào đuổi đánh. Anh T, anh V bỏ chạy được một đoạn thì bị ngã. Anh T bị H chém 02, 03 nhát vào chân phải, lưng, A chém 01 nhát vào chân trái làm anh T gục xuống. Anh V bị H chém 02 nhát vào người. Sau đó, cả nhóm bỏ đi về hướng Diên Khánh. Trên đường đi, tất cả vứt số hung khí xuống cầu Lùng ở Diên Khánh. Anh T, anh V được người dân đưa đi cấp cứu.
Tại Giấy chứng nhận thương tích số 327/2016 ngày 06/7/2016 của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, xác định thương tích của anh Lê Minh T: Vết thương vùng lưng 03cm, vết thương vùng gối (P) khoảng 04cm, vết thương mặt ngoài cổ chân (T) dài 04cm, vết thương mặt sau ngoài vùng cổ chân phải, kích thước (15 x 06)cm, đứt hoàn toàn gân gót và gân cơ mác dài chân (T).
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 210 ngày 24/8/2016 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa, xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại cho Lê Minh T là 21%.
Tại Giấy chứng nhận thương tích số 342/2016 ngày 15/7/2016 của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, xác định thương tích của anh Nguyễn Thành V: Vết thương đỉnh đầu 05cm, vết thương cánh tay (P) 04cm, vết thương phức tạp bàn tay, vết thương mu ngón 3, 4 tay (T), mất vận động ngón 3, 4 tay (T), biến dạng ngón 4 tay (T). Anh Nguyễn Thành V từ chối giám định tỷ lệ thương tật.
Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2017/HSST ngày 11/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm, đã quyết định: Áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự đối với Phương Vận A, Phan Hoài Phương N, Trần Minh T; áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự đối với Phan Hoài Phương N, xử phạt Phương Vận A 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, Phan Hoài Phương N 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, Trần Minh T 02 (Hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn xử phạt Nguyễn Thanh H 03 (Ba) năm tù, Nguyễn Văn B và Trần Quốc T mỗi người 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, Trần Phi H và Trương Văn T mỗi người 02 (Hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo qui định.
Vào các ngày 11/5/2017, 16/5/2017 và 24/5/2017, các bị cáo Phan Vận A, Phan Hoài Phương N, Trần Minh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Phương Vận A, Phan Hoài Phương N, Trần Minh T về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội, xử phạt các bị cáo Phương Vận A, Phan Hoài Phương N mỗi bị cáo 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, bị cáo Trần Minh T02 (Hai) năm tù là nhẹ. Tại phiên tòa phúc thẩm không còn tình tiết nào khác để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ngoài ra, hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện tính côn đồ nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng “Có tính chất côn đồ” đối với các bị cáo là thiếu sót, cần phải rút kinh nghiệm.
- Các bị cáo Phương Vận A, Phan Hoài Phương N, Trần Minh Tđều giữ nguyên nội dung kháng cáo; khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi mà các bị cáo đã thực hiện như nội dung án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của các bị cáo và các đồng phạm Nguyễn Thanh Huy, Nguyễn Văn B, Trần Quốc T, Trần Phi Hùng, Trương Văn Trung trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, lời khai của anh Lê Minh Trường, anh Nguyễn Thành Vinh, giấy chứng nhận thương tích, bản kết luận giám định pháp y về thương tích và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở để kết luận: Do mâu thuẫn trước đó giữa Nguyễn Thanh Huy và một số công nhân làm việc tại công trình xây dựng Khu nghỉ dưỡng Vinpearl thuộc thôn Thủy Triều, xã Cam Hải Đông, huyện Cam Lâm, Huy nhờ Phương Vận A và A rủ thêm Nguyễn Văn B, Trương Văn Trung, Trần Phi Hùng, Trần Minh T, Trần Quốc T, Phan Hoài Phương N mang theo rựa, mác vào Cam Lâm đánh lại số công nhân trên. Khoảng 17 giờ ngày 03/6/2016, thấy các anh Lê Minh Trường, Nguyễn Thành Vinh đang ngồi trong quán đối diện công trình Vinpearl, Huy cùng A cầm rựa, mác xông vào đuổi chém gây thương tích cho anh Trường với tỷ lệ thương tật 21%; anh Vinh bị thương nhưng từ chối giám định tỷ lệ thương tật. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Phương Vận A, Phan Hoài Phương N, Trần Minh Tvề tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định của pháp luật, như: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường một phần thiệt hại, xử phạt các bị cáo Phương Vận A 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, Phan Hoài Phương N 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, Trần Minh T02 (Hai) năm tù là nhẹ so với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, không còn tình tiết nào khác để Hội đồng xét xử xem xét, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo.
[4] Ngoài ra, cấp sơ thẩm xác định tiền sự đối với bị cáo Phan Hoài Phương N và bị cáo Trần Minh T là không đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 7 và Điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính. Không áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 về xóa án tích để xóa án tích cho bị cáo Phan Hoài Phương N là thiếu sót. Cấp phúc thẩm điều chỉnh lại cho phù hợp. Mặt khác, hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện tính côn đồ nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng đối với các bị cáo. Tuy nhiên đây là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1= Điều 104 Bộ luật hình sự, nhưng không có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu cấp phúc thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng nêu trên đối với các bị cáo nên cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự,
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phương Vận A, Phan Hoài Phương N, Trần Minh T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2017/HSST ngày 11/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm về phần quyết định hình phạt đối với các bị cáo Phương Vận A, Phan Hoài Phương N, Trần Minh T.
- Áp dụng khoản 2 Điều 104 (viện dẫn điểm a khoản 1 Điều 104); điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự đối với Phương Vận A, Phan Hoài Phương N, Trần Minh T,
Xử phạt:
- PHƯƠNG VẬN A 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/11/2016.
- PHAN HOÀI PHƯƠNG N 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ vào thời gian bị tạm giam từ ngày 29/11/2016 đến ngày 24/01/2017.
- TRẦN MINH T 02 (Hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Các bị cáo Phương Vận A, Phan Hoài Phương N, Trần Minh Tmỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
=Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 90/2017/HSPT ngày 20/07/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 90/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về