Bản án 89/2021/HS-ST ngày 31/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 89/2021/HS-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 31 tháng 03 năm 2021, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý sô: 66/2021/TLST-HS ngay 08tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2021 đôi vơi các bị cáo:

1) Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 13/7/1977, tại Hà Nội Nơi thường trú: Tổ X, thị trấn S, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn C Đ1 (đã chết) và ba : Nguyễn Thị B, sinh năm 1947; gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Phạm Thị H, sinh năm 1980, có 02 con chung, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: 02 -Tại Bản án số 16/2002/HSST ngày 15/3/2002 Tòa án nhân dân tỉnh thái Nguyên xử phạt 07 năm tù về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy", ra trại ngày 04/10/2007, Chi cục thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã Quyết định đình chỉ thi hành án só 96/QĐ-THA đối với khoản tiền án phí.

-Tại bản án số 27/2010/HSST ngày 20/4/2010 Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 42 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", ra trại ngày 13/12/2012, chấp hành xong án phí ngày 07/7/2011.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2020 đến nay. Hiện bị cáo bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên – Có mặt tại phiên tòa.

2) Phan Văn Lg, sinh ngày 30/10/1975, tại Thái Nguyên Nơi thường trú: xóm LV, xã HT, huyện Đ, tỉnh TN; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan Văn Th (đã chết)và ba: Đặng Thị H1 (đã chết); Gia đình bị cáo có 09 anh em, bị cáo là con thứ chín; Vợ: Ngô Thị M (đã chết); bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh 2007; Tiền án, tiên sư: không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2020 đến nay. Hiện bị cáo bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên – Có mặt tại phiên tòa.

*Ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1980 (có mặt) Nơi thường trú: Tổ X, thị trấn S, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên

*Người chứng kiến:

1)Ông Trần Đình K, sinh năm 1966 (vắng mặt) Trú tại: Tổ Y, phường Đ,TPTN, tỉnh TN.

2)Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1986 (vắng mặt) Trú tại: Tổ Y, phường Q, TPTN, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 17/12/2020 Nguyễn Văn Đ đang ở nhà tại tổ X, thị trấn S, huyện Đ tỉnh Thái Nguyên thì nhận được điện thoại của Phan Văn Lg rủ Đ đi mua ma túy về cùng sử dụng. Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen, biển kiểm soát 20B1- 740.71 đến nhà Lg ở xóm LV, xã HT, huyện Đ, tỉnh TN và chở Lg đi mua ma túy. Khi đi đến khu vực cầu G thuộc phường Đ, TPTN cả 2 gặp một người đàn ông không quen biết, Lg đưa cho người này 200.000 đồng được người đàn ông đưa cho 02 gói Heroine. Lg cầm 02 gói ma túy trong lòng bàn tay trái, ngồi sau xe mô tô do Đ điều khiển đi tìm nơi sử dụng, khi đến khu vực tổ dân phố ĐT, phường Đ, TPTN thì bị tổ C tác Công an phường Đ, TPTN phát hiện, yêu cầu kiểm tra. Do lo sợ nên Lg đã ném 02 gói ma túy Heroine từ tay trái xuống đất, tổ C tác tiến hành kiểm tra Lg tự giác dùng tay trái nhặt 02 gói giấy bạc gồm 01 gói giấy bạc màu vàng và 01 gói giấy bạc màu trắng vừa ném xuống đất bên trong đều chứa chất bột màu trắng. Tổ C tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định, cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chât bôt mau trăng thu gi ữ của Nguyễn Văn Đ và Phan Văn Lg là 0,194 gam, niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định. Ngoài ra tổ C tác còn tạm giữ của Nguyễn Văn Đ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen, biển kiểm soát 20B1-740.71, 01 điện thoại di động Nokia màu đen, lắp sim số 0346378540 và tạm giữ của Nguyễn Văn Lg 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, lắp sim số 0352844910.

Tại bản kết luận giám định số 46/KL-KTHS ngày 25/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,194 gam.

Bản cáo trạng số 50/CT-VKSTPTN ngay 05 tháng 02 năm 2021 của Viện kiêm sat nhân dân thành ph ố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Phan Văn Lg về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận do nghiện ma túy,nên đã rủ nhau cùng đi mua ma túy về sẽ cùng nhau sử dụng,sau khi mua xong cả hai đang đi tìm nơi để sử dụng thì bị lực lượng Công an khám xét thu giữ như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tộicác bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Phan Văn Lg phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 24-30 tháng tù, Phan Văn Lg từ 18-24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong chứa ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định, tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen bạc; Trả lại cho chị Phạm Thị H 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen, biển kiểm soát 20B1-740.71, xe đã qua sử dụng; Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩmtheo quy định của pháp luật.

Phần tranh luận:Các Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng các bị cáo nhận thức hành vi vi phạm của mình đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòacác bị cáokhông có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2]Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của các bị cáo:Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên về số chất bột màu trắng được thu của các bị cáo là Heroine.Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do nghiện ma túy khoảng 15 giờ ngày 17/12/2020 Nguyễn Văn Đ nhận được điện thoại của Phan Văn Lg rủ đi mua ma túy để sử dụng. Đ đồng ý và đèo Lg đến khu vực cầu G, phường Đ gặp người đàn ông không quen biết ở khu vực cầu G, phường Đ Lg hỏi mua 200.000 đồng được người đàn ông đưa cho 02 gói ma túy. Hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày khi Đ và Lg đang trên đường tìm nơi sử dụng thì bị tổ C tác Công an phường Đ yêu cầu kiểm tra tại khu vực tổ dân Phố ĐT, phường Đ và bắt, thu giữ vật chứng, qua cân kiểm tra số chất bột màu trắng xác định khối lượng 0, 194 gam, giám định là Heroine.

[3]Với hành vi mua 0,194gam Heroine với mục đích để sử dụng như trên hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Phan Văn Lg phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4]Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của các bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của các bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm suy thoái giống nòi, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân các bị cáo phải nhận thức được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội tuy nhiên các bị cáo không từ bỏ ma túy mà vẫn mua Heroine phục vụ cho nhu cầu của bản thân.

[5]Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mìnhlà tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, bị cáo Đính có nhân thân xấu đã bị xét xử nhiều lần về hành vi liên quan đến chất ma túy tuy nhiên sau khi cải tạo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội do đó Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự các bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung “ phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét cácbị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp, không có tài sản, thu nhập, mua ma túy với mục đích để sử dụng, Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng: Đối với bì niêm phong Heroine cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 02 điện thoại thu giữ của Đ và Lg sử dụng liên hệ rủ nhau đi mua ma túy cần tịch thu sung quỹ; Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen, biển kiểm soát 20B1-740.71 quá trình điều tra và tại phiên tòa chị Phạm Thị H xác định bị cáo Đ mới đi trại cải tạo về nên toàn bộ là tiền mua xe là của chị tích góp được đưa cho bị cáo mua xe hộ, chiếc xe mô tô trên hàng ngày chị sử dụng để đi chợ và phục vụ mọi sinh hoạt trong gia đình, ngày 17/12/2020 bị cáo Đ sử dụng để đi mua ma túy chị không biết, Hội đồng xét xử xem xét trả lại xe cho chị Huyền quản lý sử dụng.

[8]Các Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

 [9] Về nguồn gốc số Heroine Nguyễn Văn Đ và Phan Văn Lg khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực Cầu G thuộc phường Đ, quá điều tra xác minh chưa xác định được lai lịch, địa chỉ, nên chưa có căn cứ xem xét.

[10] Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa đối với các bị cáo là phù hợp, được chấp nhận Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự

 QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Phan Văn Lg phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy".

[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17; Điều 38;

điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Nguyễn Văn Đ 24 (Hai mươi tư) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020 Phan Văn Lg 21 (Hai mươi mốt)tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020.

[3] Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Phan Văn Lg mỗi bị cáo 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[4] Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

[4.1] Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong chứa ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định, mặt sau bì có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và các chữ ký của Nguyễn Thành Trung và Ma Nhật Anh [4.2]Tịch thu sung quỹ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng số IMEI1: 356853070139243, số IMEI2: 356853071039250 thu giữ của Nguyễn Văn Đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen bạc đã qua sử dụng số IC: 661U- RM721 thu giữ của Phan Văn Lg.

[4.3] Trả lại cho chị Phạm Thị H 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 20B1-740.71, xe đã qua sử dụng, số khung: RLHJA3122EY055111, số máy: JA31E-0298478, loại xe Hai bánh từ 50- 173cm3, màu sơn vàng đen, dung tích xi lanh: 109.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 192 lập ngày 03/02/2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các Bị cáo Nguyễn Văn Đ và Phan Văn Lg mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách nhà nước.

[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Phan Văn Lg và chị Phạm Thị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 89/2021/HS-ST ngày 31/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:89/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về