Bản án 89/2021/HSST ngày 28/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU - TỈNH ĐỒNG NAI

 BẢN ÁN 89/2021/HSST NGÀY 28/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 94/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2021; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Vũ L, sinh ngày 28 tháng 12 năm 1997, tại tỉnh Đồng Nai.;

Nơi cư trú: ấp 7, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: lớp 08/12;

Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Họ tên cha: Trần Văn L, sinh năm 1959, (đã chết).

Họ tên mẹ: Nguyễn Thị L1, sinh năm 1962, Gia đình bị cáo có 03 anh chị em, bị cáo là con út.

Họ và tên vợ: Lương Thị Thúy N, sinh năm 1998, có 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 25/01/2021 đến ngày 28/01/2021 thì được thay đổi biện phán ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú;

* Bị hại: Ông Liên Thành Đ, sinh năm 1971 Địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

* Người làm chứng: Anh Liên Đức D, sinh năm 1983 Địa chỉ: Ấp 1, xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

(Bị cáo có mặt tham gia phiên tòa, những người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cùng làm tài xế chạy xe tải nên L và D là bạn bè thân thiết với nhau. Ngày 21/01/2021, xe tải mà L chạy bị hỏng, đang chờ sửa chữa nên L đến nhà D chơi và ở lại nhà D trong thời gian chờ sửa xe. Khi sinh hoạt tại nhà của D, L biết cha của anh D là ông Đ thường để tiền trong ví (bóp da) cất trong túi quần treo trong phòng ngủ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Khoảng 23 giờ ngày 22/01/2021, lợi dụng lúc anh D và ông Đ ngủ say, L lẻn vào phòng ngủ của ông Đ lục soát ví trong túi quần lấy trộm số tiền 10.000.000 đồng của ông Đ rồi mở cửa nhà sau bỏ đi. Sau khi phát hiện mất tài sản, ông Đ nghi ngờ L lấy trộm số tiền trên nên đến Công an xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai trình báo.

Ngày 25/01/2021, L đến Công an xã Tân An đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và tự nguyện giao nộp số tiền còn lại là 7.210.000 đồng. Công an xã Tân An lập hồ sơ chuyển Công an huyện Vĩnh Cửu xử lý theo thẩm quyền. Cơ quan điều tra đã giao trả 7.210.000 đồng cho ông Đ. Đồng thời bị cáo đã trả số tiền còn lại, Như vậy ông Đ đã nhận lại đủ 10.000.000 đồng và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho L.

Tại bản Cáo trạng số 91/CT-VKSVC ngày 08 tháng 6 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu để xét xử Trần Vũ L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Xử phạt bị cáo Trần Vũ L từ 08 đến 10 tháng tù. Đồng thời buộc bị cáo chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Vũ L thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 22/01/2021, tại ấp 1 xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của ông Đ, bị cáo L đã lén lút chiếm đoạt của ông Đ số tiền 10.000.000 đồng. Như vậy bị cáo Trần Vũ L đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, nên cần xử phạt bị cáo mức án đủ nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, sống tôn trọng pháp luật, đồng thời còn nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[2]. Xét về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã giao nộp lại tài sản bị chiếm đoạt và tích cực bồi thường khắc phục hậu quả nên gây thiệt hại không lớn; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đồng thời xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, nhất thời phạm tội; có nơi cư trú rõ ràng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ; bị cáo là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi các con đều còn nhỏ (03 tuổi và 04 tuổi) nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo là phù hợp và thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu về phần dân sự nữa nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[4]. Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5]. Về việc xét xử vắng mặt và quyền kháng cáo: Bị hại vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, nhưng trước đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập tới tham gia phiên tòa cho bị hại. Đồng thời, việc vắng mặt của những người này không trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng bị hại. Quyền kháng cáo của bị hại vắng mặt tại phiên tòa được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

[6]. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đúng quy định của pháp luật.

[7]. Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh và mức hình phạt phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố: Bị cáo Trần Vũ L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Vũ L (09 chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án (ngày 28/6/2021).

Giao bị cáo Trần Vũ L cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình của bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã X giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Trần Vũ L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

3. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại (ông Liên Thành Đ) có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 89/2021/HSST ngày 28/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:89/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về