Bản án 89/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 89/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2020/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 9 năm 2020, đối với:

Bị cáo Vũ Quang N sinh ngày 21/10/1996; tại: huyện P, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn H, xã M, huyện P, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Dương L (đã chết) và bà: Phạm Thị M sinh năm 1966; vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Không Tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 38/QĐ-XPHC ngày 06/02/2020 của Công an huyện P phát tiền 350.000 đồng về hành vi mua, bán số lô, số đề; ngày 11/02/2020 chấp hành xong.

Nhân thân: Tháng 9/2014 tham gia N vụ quân sự, đến tháng 02/2016 xuất ngũ về địa phương; Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 177A ngày 01/11/2017 của Công an huyện P phạt tiền 500.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”, ngày 20/11/2017 thi hành xong.

Bị tạm giữ từ ngày 17/6/2020, đến ngày 23/6/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Trần Văn T sinh năm 1989

Địa chỉ: Thôn H, xã C, thành phố B, tỉnh Thái Bình

Người chứng kiến:

- Anh Nguyễn Đình K sinh năm 1993

Địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Thái Bình

- Ông Nguyễn Khắc C sinh năm 1964

Địa chỉ: Thôn T, xã AT, huyện P, tỉnh Thái Bình

- Ông Đào Văn R sinh năm 1957

Địa chỉ: Thôn M1, xã AT, huyện P, tỉnh Thái BÌnh.

(Tại phiên tòa có mặt bị cáo; vắng mặt anh T , anh K , ông C và ông R).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 30 ngày 17/6/2020 tại đường liên xã thuộc địa phận Thôn T, xã AT, huyện P, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang Vũ Quang N đang bán trái phép 01 gói ma túy đá cho Trần Văn T.Tại thời điểm bắt giữ còn có anh Nguyễn Đình Khải. Tổ công tác đã đưa N, T và anh Khvề trụ sở Công an xã AT để làm việc. Tại đây, tiến hành kiểm tra, thu giữ tại túi quần bên trái phía trước T đang mặc 01 túi nilon trong suốt có gờ cài, bên trong chứa các hạt tinh thể dạng trong suốt. Tú khai nhận đó là ma túy đá T vừa mua của N với giá 300.000 đồng để sử dụng cho bản thân; thu giữ tại túi quần bên trái, phía sau N đang mặc số tiền 300.000 đồng, N khai là tiền vừa bán 01 gói ma túy đá cho T mà có; thu giữ tại túi quần bên trái phía sau của N 01 điện thoại di động Iphone màu hồng đã cũ. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý đồ vật tài liệu, niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Quang N phát hiện, thu giữ trên giường ngủ của N 01 cân điện tử màu bạc, 01 bình nhựa sử dụng ma túy đá tự chế, 20 vỏ túi nilon các loại.

Tại bản kết luận giám định 235/KLGĐ-PC09 ngày 19/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “ Mẫu vật trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0340 gam (không phẩy không nghìn ba trăm bốn mươi gam).

Methamphetamine STT: 323, Danh mục II , Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận: Buổi trưa ngày 17/6/2020, N đi xe ôm sang khu CN thuộc huyện VB, Thành phố Hải Phòng mua của một người đàn ông không quen biết 02 gói ma túy đá với giá 400.000 đồng, giấu vào túi và đi về nhà, một mình sử dụng hết 01 túi, giấu 01 túi vào túi quần bên trái, phía sau đang mặc bán để kiếm lời. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, N mang theo 01 túi ma túy đá nêu trên đi ra đứng tại trục đường liên thôn thuộc địa phận Thôn T, xã AT, huyện P thì gặp Anh Nguyễn Đình K chở Trần Văn T đi đến. Tú xuống xe, đi lại phía N và hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 300.000 đồng. N nhận tiền cất vào túi quần bên trái phía sau và lấy ra 01 gói ma túy bán cho T . T nhận ma túy cho vào túi quần bên trái phía trước đang mặc thì bị phát hiện bắt giữ.

Người có quyền lợi và nghìa vụ liên quan anh Trần Văn T khai: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/6/2020 tại khu vực trục đường liên xã thuộc Thôn T, xã AT, huyện P anh có hỏi và mua của Vũ Quang N 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng, anh đưa tiền cho N, N đưa cho anh 01 túi ma túy đá, anh bỏ vào túi quần bên trái phía trước thì bị phát hiện, bắt giữ. Anh mua ma túy của N thì anh Nguyễn Đình K không biết.

Người chứng kiến Anh Nguyễn Đình K khai: Chiều ngày 17/6/2020 anh có đi cùng với Trần Văn Tnhưng anh không biết K mua ma túy của Vũ Quang N và anh cũng không biết T đi mua ma túy.

Bản Cáo trạng số 93/CT-VKSQP ngày 10/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình truy tố Vũ Quang N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Vũ Quang N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh tuyên bố bị cáo Vũ Quang N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Về hình phạt: áp dụng khoản 1 Điều 251, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 02 (Hai) năm 09 (Chín) tháng đến 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 17/6/2020; phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) đến 7.000.000 đồng (Bẩy triệu đồng) để thu nộp Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, còn đề nghị về xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì; bị cáo nói lời sau cùng: nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, rất ân hận về hành vi mà mình đã thực hiện và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi N vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận đã đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân và bán để kiếm lời, bị cáo vừa bán cho Trần Văn T 01 túi ma túy thu về 300.000 đồng, thì bị phát hiện bắt giữ. Bị cáo đã đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả và được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng do Công an tỉnh Thái Bình lập ngày 17/6/2020, lời khai của người có quyền lợi, N vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, bản kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/6/2020, tại trục đường liên xã thuộc địa phận Thôn T, xã AT, huyện P, Vũ Quang N đã có hành vi bán trái phép cho Trần Văn T01 túi ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,0340 gam (Không phẩy không nghìn ba trăm bốn mươi gam) thu số tiền 300.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

“Điều 251 Tội mua bán trái phép chất ma túy

1.Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

…….

5.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.0000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Tệ nạn ma túy đang là mối quan tâm, nhức nhối của toàn xã hội, ma túy làm ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, làm phát sinh đại dịch HIV/AIDS và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy nhưng vì nghiện ma túy và hám lời nên bị cáo đã phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật với mức án tương xứng hành vi bị cáo đã gây ra, việc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để chấp hành hình phạt là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành thật khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thời gian tham gia quân đội nhân dân Việt Nam nên coi đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy năm 2017, tháng 02/2020 bị báo lại bị xử phạt tiền về hành vi mua số lô, số đề chưa được xóa tiền sự. Bị cáo đã được giáo dục nhiều lần song không chịu tu dưỡng, rèn luyện mà lại tiếp tục phạm tội, điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.Từ những căn cứ và nhận định nêu trên nên về hình phạt áp dụng đối với bị cáo như mức Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo phạm tội với động cơ thu lời bất chính nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo như mức Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

[7] Đối với Trần Văn Tngười đã mua ma túy của bị cáo, do T chưa có tiền án về ma túy, khối lượng ma túy của Tú mua của Vũ Quang N chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Tú là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Đối với Nguyễn Đình K là người đi cùng T nhưng anh K không biết việc T nhờ anh chở anh chở đi để mua ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 300.000 đồng đã thu giữ của bị cáo là tiền do bị cáo bán ma túy cho Trần Văn mà có, đây là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước; đối với 01 điện thoại di động Iphone đã thu giữ của bị cáo, đây là tại sản không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại bị cáo; thu giữ của Trần Văn 01 gói chứa các hạt tinh thể dạng trong suốt, kết quả giám định kết luận là ma túy loại Methamphetamine hoàn trả mẫu vật sau giám định, thu giữ của bị cáo 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá đây là loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy; 01cân điện tử và 20 vỏ túi nilon các đã thu giữ của bị cáo, những vật chứng này có giá trị không đáng kể, bị cáo không có nhu cầu xin lại nên cần tịch thu để tiêu hủy. Việc xử lý vật chứng như trên là phù hợp quy định Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố Tụng hình sự.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Quang N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2.Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 251, khoản 5 Điều 251, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Vũ Quang N 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 17/6/2020. Phạt bổ sung bị cáo Vũ Quang N số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để thu nộp ngân sách Nhà nước.

3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: 3.1. Tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã thu giữ của bị cáo Vũ Quang N do bán ma túy cho Trần Văn Tmà có (Theo biên lai thu số 0000457 ngày 11/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thái Bình).

3.2.Tuyên trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Iphone màu hồng đã cũ.

3.3.Tuyên tịch thu để tiêu hủy: 0,0214 gam (Không phẩy không nghìn hai trăm mười bốn gam) mẫu vật hoàn trả sau giám định và toàn bộ bao gói thu của Trần Văn T trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định ghi số 235/KLGĐ; 01 cân điện tử màu bạc đã cũ; 01 bình nhựa sử dụng ma túy đá tự chế và 20 vỏ túi nilon các loại.

(Cụ thể như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thái Bình ngày 11/9/2020).

4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Vũ Quang N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:89/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về