Bản án 89/2020/HS-ST ngày 18/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 89/2020/HS-ST NGÀY 18/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 82/2021/TLST-HS ngày 20/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2021/QĐXXST-HS ngày 04/5/2021 đối với bị cáo:

Đỗ Thị L, sinh năm 1982; Đăng ký nhân khẩu thường trú: P114 A15, tập thể N, phường N, quận C, thành phố Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa:

10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đỗ Thái C (đã chết) và bà Cung Thị T, sinh năm 1957; Chồng là: Trần Mạnh T, sinh năm 1979; Có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: 02 tiền án:

- Bản án số 611/2011/HSST ngày 22/12/2011, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 32 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 30/8/2013;

- Bản án số 130/2016/HSST ngày 12/4/2016, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 24/01/2020.

Nhân thân: Bản án số 229 ngày 22/5/2002, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 42 tháng tù về tội “Lưu hành tiền giả”, ra trại ngày 31/8/2004.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 07/11/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam số X - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ ngày 06/11/2020, tổ công tác Công an phường T đang làm nhiệm vụ phát hiện Đỗ Thị L đang đi bộ vào ngõ 1, T, N, Hà Nội có biểu hiện nghi vấn. Yêu cầu kiểm tra, L đã tự nguyện lấy từ túi quần phía trước bên trái đang mặc ra 01 túi nilon màu trắng, giao nộp cho tổ công tác, kiểm tra bên trong có 02 túi nilon chứa tinh thể màu trắng, L khai là ma túy đá đang mang đi giao cho khách. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, dẫn giải L cùng vật chứng về trụ sở để thụ lý giải quyết.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 3x5cm, bên trong có 02 túi nilon chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70 màu xanh số IMEI: 355915101972495, lắp sim số 0918461982 và 0397991661;

Quá trình điều tra xác định:

Đỗ Thị L là đối tượng nghiện hút, biết mua bán ma tuý sẽ thu được lợi nhuận cao nên L nảy sinh ý định đi mua ma tuý về để bán kiếm lời. L khai: khoảng 17 giờ 30 phút ngày 05/11/2020, L đến nhà Nguyễn Thị H (tại ngõ 470 N. T, T. T, T, Hà Nội) hỏi mua được 10 gam ma túy đá với giá 3.700.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý, L mang về nhà lấy ra một ít để sử dụng, số còn lại L chia ra thành 02 túi nilon nhỏ cất giấu để bán cho khách. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 06/11/2020, L nhận được tin nhắn từ số thuê bao 0865093571 của Nguyễn Mạnh T (SN: 1986, HKTT: Q.L, T, H, Hà Nội - là con rể Nguyễn Thị H) đến số thuê bao 0397991661 của L hỏi mua 10 gam ma túy đá. L đồng ý bán với giá 4.000.000 đồng và hẹn giao dịch ở nhà nghỉ S trên đường L. T. V, T, N, Hà Nội. L lấy số ma túy đá đã cất giấu trước đó ra cho vào túi quần phía trước bên trái L đang mặc rồi thuê anh Nguyễn Tiến Đ (SN: 1985; nơi cư trú: M, C, Hà Nội) chở đến đầu ngõ 1, T, N, Hà Nội. L bảo anh Đ chờ, rồi xuống xe đi bộ đến nhà số 7, ngõ 1, đường T thì bị tổ công tác Công an phường T phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại cơ quan điều tra, Đỗ Thị L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Bản kết luận giám định số 10038/KLGD -PC09 ngày 14/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 9,896 gam.

Đối với anh Nguyễn Tiến Đ là người chở Đỗ Thị L đến ngõ 1, đường T, N, Hà Nội. Quá trình điều tra xác định anh Đ chỉ làm nghề chở khách thuê, anh không biết L đi bán ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với Nguyễn Thị H là người đã bán ma tuý cho L (như L khai). Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Thị H không thừa nhận đã bán ma túy cho L. Tiến hành đối chất giữa L và H, cả hai vẫn giữ nguyên lời khai trước đó tại Cơ quan điều tra. Ngoài lời khai của Đỗ Thị L ra không còn tài liệu nào khác chứng minh Nguyễn Thị H đã bán ma túy cho L. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ và xử lý.

Đối với Nguyễn Mạnh T là người hỏi mua 10 gam ma túy đá của L (như L khai). Tại cơ quan điều tra, T khai có sử dụng số thuê bao 0865093571 nhưng đã đánh rơi chiếc điện thoại lắp số sim này vào sáng 06/11/2020, T không đặt mua ma túy của L. Ngoài lời khai của Đỗ Thị L ra, không còn tài liệu nào khác chứng minh Nguyễn Mạnh T đã đặt mua ma túy của L. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ và xử lý.

Xét nghiệm ma túy trong nước tiểu đối với Đỗ Thị L cho kết quả dương tính với MET (có sử dụng ma túy), ngày 30/3/2021, Công an quận Nam Từ Liêm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 193, mức phạt: 750.000 đồng đối với Đỗ Thị L về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ. Xét nghiệm ma túy trong nước tiểu đối với Nguyễn Thị H và Nguyễn Mạnh T cho kết quả âm tính (không sử dụng ma y).

Tại bản cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 16/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm bị cáo Đỗ Thị L bị truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Đỗ Thị L khai nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Đỗ Thị L đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm điểm i, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm i, q khoản 2 Điều 251, điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, tuyên phạt bị cáo Đỗ Thị L mức án từ tháng đến tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về dân sự: Không.

Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70 màu xanh số IMEI: 355915101972495; lắp sim số 0918461982 và 0397991661 thu giữ của bị cáo liên quan đến việc phạm tội đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo không tham gia tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 15 giờ ngày 06/11/2020, tại ngõ 1, T, N, Hà Nội, Đỗ Thị L có hành vi mang 9,896 gam ma túy loại Methamphetamine đi bán cho khách thì bị tổ công tác Công an phưng T phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi của bị cáo Đỗ Thị L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm i, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Như cáo trạng của Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn cứ phù hợp pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo nhận thức rõ việc sử dụng ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình cất giấu ma túy để bán kiếm lời. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà các bị cáo được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, năm 2002, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 42 tháng tù về tội Lưu hành tiền giả (đã được xóa án tích). Bị cáo có 02 tiền án, tại bản án số 611/2011/HSST ngày 22/12/2011, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 32 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 30/8/2013; Tại bản án số 130/2016/HSST ngày 12/4/2016, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 24/01/2020, chưa được xóa án tích. Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do vậy, cần phải có mức án tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả do bị cáo gây ra.

[5] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên: Xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian và áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70 màu xanh số IMEI: 355915101972495; lắp sim số 0918461982 và 0397991661 thu giữ của bị cáo liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm i, q Khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015;

- Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Đỗ Thị L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thị L 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2020.

Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong mép dán có chữ ký giáp lai của bị cáo Đỗ Thị L, cán bộ công an phường T và giám định viên.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70 màu xanh số IMEI: 355915101972495; lắp sim số 0918461982 và 0397991661 thu giữ của bị cáo.

Theo biên bản giao, nhận vật chứng số 149 ngày 20/4/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận N, thành phố Hà Nội.

Án phí: Bị cáo Đỗ Thị L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2020/HS-ST ngày 18/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:89/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về