Bản án 89/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 89/2020/HS-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 80/2020/TLST- HS ngày 13 tháng 7 năm 2020, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Hoàng P., tên gọi khác: Sói; sinh ngày 31/12/1989 tại Bình Định; Nơi cư trú: Tổ x, khu phố y, phường Đ., TP. Quy Nhơn, Bình Định; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Trình độ học vấn: 3/12; Con ông Lê Hoàng Ph., sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Thu H., sinh năm 1962; Vợ: Nguyễn Thị D., sinh năm 1991; Con: 02 con (lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2020); Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/4/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Quy Nhơn, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng giữa năm 2019, P. quen biết người thanh niên tên “Ba Lá” (không rõ lai lịch) và có được số điện thoại, P. biết “Ba Lá” có bán ma túy nên P. đã liên lạc mua ma túy để sử dụng, cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 11 giờ ngày 31/01/2020, P. gọi điện thoại cho “Ba Lá” hỏi mua một gói ma túy đá với số tiền 150.000 đồng, “Ba Lá” đồng ý và hẹn giao trước trường THPT chuyên Lê Quý Đôn, phường Hải Cảng, thành phố Quy Nhơn. Sau đó P. đến điểm hẹn đưa 150.000 đồng cho “Ba Lá” và nhận 01 gói thuốc Sài Gòn, bên trong có 01 gói nilon đựng ma túy đá từ “Ba Lá”. P. đem về nhà và đã sử dụng hết số ma túy trên.

Lần thứ hai: vào khoảng 18 giờ ngày 05/4/2020, P. gọi điện thoại hỏi mua ma túy đá của “Ba Lá” với số tiền 150.000 đồng. “Ba Lá” đồng ý và hẹn giao ma túy tại đoạn đường 1 tháng 5, phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn. Khoảng 20 phút sau, P. đứng tại điểm hẹn thì thấy có một người nam đeo khẩu trang, đội mũ bảo hiểm, điều khiển xe mô tô chạy đến, P. đưa số tiền 150.000 đồng cho người này, người này nhận tiền và nói ma túy để trong gói thuốc JET ở chỗ gốc cây rồi bỏ đi. P. đến gốc cây lấy gói thuốc JET, mở ra bên trong có 01 gói nilon được hàn kín có chứa ma túy đá, P. bỏ vào túi quần phải rồi đi về nhà. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, P. điều khiển xe một mình từ nhà đến khu đô thị Đại Phú Gia thuộc tổ 23, khu phố 4, phường Nhơn Bình, thành phố Quy Nhơn thì bị lực lượng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Quy Nhơn cùng Công an phường Nhơn Bình đang tuần tra tiến hành kiểm tra hành chính, phát hiện P. đang cất giấu trong túi quần bên phải một gói ma túy, P. khai nhận cất giấu số ma túy này để sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ, niêm phong số ma túy trên.

Ngày 07/4/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: “các hạt tinh thể màu trắng đựng bên trong 01 (một) gói nilon hàn kín ghi thu của Lê Hoàng P. (ký hiệu A1) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,162 gam là (loại): Methamphetamine”.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quy Nhơn đã tạm giữ 01 (một) gói thuốc JET có vỏ màu trắng; 0,128 gam mẫu A còn lại sau giám định được đựng trong 01 bì thư dán kín niêm phong 03 dấu tròn “Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định”.

Bản cáo trạng số 78/CT - VKSQN ngày 10 tháng 7 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn truy tố bị cáo Lê Hoàng P. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Lê Hoàng P. có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã có hành vi cất giữ 0,162 gam Methamphetamine để sử dụng nên Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù; Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự ; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) tịch thu, tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Bị cáo không tự bào chữa Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, xin Tòa giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Lê Hoàng P. có đầy đủ sức khỏe, đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo sử dụng ma túy nên biết rất rõ việc sử dụng ma túy lâu dài sẽ gây nghiện, gây tác hại rất lớn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm nên việc cất giữ, mua bán, sử dụng các chất ma túy phải theo quy định đặc biệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhưng bị cáo lại chủ động liên lạc với một người có tên là “Ba Lá” để mua ma túy về sử dụng. Tối ngày 05/4/2020, bị cáo bị bắt quả tang khi đang cất giữ số ma túy này trong túi quần. Theo Kết luận giám định số 80/PC09 ngày 07/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định thì “Các hạt tinh thể màu trắng đựng bên trong 01 (một) gói nilon hàn kín ghi thu của Lê Hoàng P. (ký hiệu A) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,162 gam là (loại) Methamphetamin”.

Methamphetamin có số thứ tự 323, Danh mục II: Các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

[3] Hành vi tàng trữ trái phép các chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo, răn đe và phòng ngừa loại tội phạm này trong xã hội.

Tuy nhiên, tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, số ma túy tàng trữ không nhiều nên xử bị cáo với mức án có lý, có tình, khởi điểm của khung hình phạt, trong mức đề nghị của Kiểm sát viên để bị cáo an tâm cải tạo sớm tái hòa nhập với cộng đồng. [4] Đối với người nam giao ma túy cho P., bị cáo khai không biết người đó là ai, còn người tên “Ba lá”, bị cáo cũng không biết họ tên, địa chỉ của người này. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa điều tra được đối tượng nên chưa có căn cứ để xem xét hành vi của họ trong vụ án này, sau này điều tra, làm rõ sẽ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng:

Số ma túy đang thu giữ còn lại sau giám định là vật chứng của vụ án không có giá trị kinh tế nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về án phí:

Bị cáo bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng P. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Lê Hoàng P. 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 05/4/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 0,128 gam mẫu A còn lại sau giám định; Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định (Toàn bộ mẫu hoàn lại đựng trong một bì thư dán kín niêm phong 03 dấu tròn “Phòng kĩ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Định”) và 01 (một) gói thuốc JET có vỏ màu trắng dùng để đựng ma túy, được thu giữ từ túi quần bên phải của Lê Hoàng P. theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/7/2020 của Chi Cục Thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

342
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:89/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về