Bản án 89/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BN ÁN 89/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 11 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 220/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Mai Thị H – sinh năm: 1982. 

HKTT: Ấp TL, xã TS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Anh Đàm Văn H1 – sinh năm: 1975.

HKTT: Ấp TL, xã TS, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

Chỗ ở: Ấp TT, xã PL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

(Chị H và anh H1 có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguên đơn chị H trình bày:

Chị và anh Đàm Văn H1 tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2000 và được UBND xã TS cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/10/2000. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm sống. Ngoài ra do anh H1 thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn, không chăm lo cho cuộc sống gia đình. Thậm chí anh H1 thường xuyên đánh đập vợ, con. Do đó trong cuộc sống chung vợ chồng thường xuyên căng thẳng, cãi vã, đời sống chung không hạnh phúc. Từ năm 2011 chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống và vợ chồng chị sống ly thân nhau cho đến nay. Nay tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Đàm Văn H1.

Về con chung: Chị và anh H1 có 02 con chung là:

- Đàm Nhật H2 – sinh ngày: 03/9/2001.

- Đàm Huỳnh Đ – sinh ngày: 14/6/2003.

Tại đơn khởi kiện, chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con. Hiện tại cháu H2 đã thành niên và có khả năng lao động nên chị không yêu cầu xem xét, giải quyết vấn đề nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Nay chị yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị và anh H1 tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/9/2019, bị đơn Đàm Văn H1 trình bày:

Anh và chị Mai Thị H tự nguyện sống chung với nhau vào năm 2000 và được UBND xã TS cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/10/2000. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm sống. Do đó cuộc sống chung thường xuyên cãi vã nhau. Từ năm 2016 vợ chồng sống ly thân nhau cho đến nay. Anh đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng chị H không đồng ý đoàn tụ. Nay chị H yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị H có 02 con chung là:

- Đàm Nhật H2 – sinh ngày: 03/9/2001.

- Đàm Huỳnh Đ – sinh ngày: 14/6/2003.

Khi ly hôn, các con có nguyện vọng sống cùng ai thì người đó trực tiếp nuôi dưỡng và anh không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh và chị H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị H đã cung cấp những tài liệu, chứng cứ sau: CMND của chị H (bản sao); Sổ hộ khẩu chị H và anh H1 (bản sao); Giấy chứng nhận kết hôn (bản sao); Giấy khai sinh của con chung (bản sao).

Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ sau: Biên bản lấy lời khai của chị Mai Thị H; Biên bản lấy lời khai của anh Đàm Văn H1; Biên bản xác minh đối với ông Nguyễn Quốc T, ông Đặng Văn B.

Các tài liệu, chứng cứ này Tòa án đã ra thông báo cho các bên đương sự biết đồng thời tiến hành mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và ra thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho những người vắng mặt theo đúng quy định của pháp luật.

Ý kiến của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Do các đương sự có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Xét vợ chồng chị H và anh H1 đã xảy ra mâu thuẫn, không hòa giải đoàn tụ được. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị H, cho chị Mai Thị H được ly hôn với anh Đàm Văn H1.

+ Về con chung:

Cháu Đàm Nhật H2 – sinh ngày: 03/9/2001 hiện tại đã thành niên và có khả năng lao động nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Đề nghị giao cháu Đàm Huỳnh Đ – sinh ngày: 14/6/2003 cho chị Mai Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời anh H1 không phải cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu.

+ Về tài sản chung: Chị H và anh H1 không yêu cầu giải quyết. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

+ Về nợ chung: Chị H và anh H1 kê khai không có, không yêu cầu giải quyết. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

+ Về án phí: Đề nghị buộc chị Mai Thị H phải chịu 300.000đ án phí DSST về ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Nguyên đơn chị Mai Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết việc nuôi dưỡng con chung đối với bị đơn anh Đàm Văn H1. Anh H1 đang cư trú tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ tranh chấp trong vụ kiện này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

Chị Mai Thị H và anh Đàm Văn H1 là các đương sự trong vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến Tòa án để tham gia phiên tòa nhưng chị H và anh H1 đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt chị H và anh H1.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh H1 tự nguyện sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TS vào ngày 12/10/2000. Như vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp, nay chị H yêu cầu ly hôn với anh H1 thì Tòa án áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Chị H yêu cầu ly hôn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm sống, anh H1 thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn, không chăm lo cho cuộc sống gia đình, đánh đập vợ con. Anh H1 không đồng ý ly hôn nhưng cũng thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm sống. Chị H và anh H1 đều thừa nhận trong cuộc sống chung thường xuyên cãi vã và đã sống ly thân nhau. Đồng thời qua xác minh tại địa phương thể hiện đời sống chung của vợ chồng anh chị không hạnh phúc và đã sống ly thân nhau (bút lục 26 – 27).

Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy để chị H có điều kiện ổn định cuộc sống của mình nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện chị H là cho chị được ly hôn với anh H1 là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[3]. Về con chung: Chị H và anh H1 có 02 con chung là:

- Đàm Nhật H2 – sinh ngày: 03/9/2001.

- Đàm Huỳnh Đ – sinh ngày: 14/6/2003.

Hiện tại, cháu H2 đã thành niên và có khả năng lao động nên chị H không yêu cầu xem xét, giải quyết vấn đề nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Chị H có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ. Anh H1 có ý kiến con chung có nguyện vọng sống cùng ai thì người đó trực tiếp nuôi dưỡng.

Xét thấy, cháu Đ có nguyện vọng được trực tiếp sống cùng chị H. Bản thân chị H có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Hơn nữa, từ khi chị H và anh H1 sống ly thân đến nay, cháu Đ sống cùng chị H. Vì vậy để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung nên tiếp tục giao cháu Đ cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm thời anh H1 không phải cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu.

[4]. Về tài sản chung: Chị H và anh H1 tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về nợ chung: Chị H và anh H1 kê khai không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì chị Mai Thị H phải chịu 300.000đ án phí DSST về ly hôn.

[7]. Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, do đó được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Mai Thị H.

Cho chị Mai Thị H được ly hôn anh Đàm Văn H1.

2. Về con chung: Chị H và anh H1 có 02 con chung là:

- Đàm Nhật H2 – sinh ngày: 03/9/2001.

- Đàm Huỳnh Đ – sinh ngày: 14/6/2003.

Hiện tại, cháu Đàm Nhật H2 đã thành niên và có khả năng lao động nên chị H không yêu cầu xem xét, giải quyết vấn đề nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Giao cháu Đàm Huỳnh Đ cho chị Mai Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời anh Đàm Văn H1 không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh H1 có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung: Các đương sự kê khai không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Chị Mai Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST về ly hôn. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 005517 ngày 16 tháng 5 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí.

Chị H và anh H1 có quyền có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

5. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:89/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về