Bản án 89/2018/HNGĐ-ST ngày 17/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỐT NỐT, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 89/2018/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 17 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 322/2018/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2018 về việc: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 179/2018/QĐXX-ST ngày 18 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị T  sinh năm 1991

Trú tại: Ấp Q, xã P, huyện S, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V sinh năm 1983

Trú tại: khu vực A, phường H, quận T, thành phố Cần Thơ.

3. Người có quyền, lợi ích được bảo vệ - con chung:

3.1. Cháu Nguyễn Thị Ngọc D  sinh ngày 10.7.2008

3.2. Cháu Nguyễn Văn X sinh ngày 05.9.2013

(con chung đang sống với chị T tại ấp Q, xã P, huyện S, An Giang; Và do chị T là người giám hộ).

(Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 19.7.2018 và quá trình giải quyết vụ kiện, nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày:

Vào năm 2007, chị với anh Nguyễn Văn V tự nguyện tìm hiểu và yêu thương nhau nên được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân phường H, quận T ngày 24.9.2010. Sau khi cưới, vợ chồng sống chung gia đình anh V tại khu vực A, phường H, quận T, thành phố Cần Thơ.

Quá trình chung sống vợ chồng thường hay cải vả, không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, anh V không chí thú làm kinh tế mà hay tham gia cờ bạc. Chị có khuyên ngăn nhưng anh V không từ bỏ nên từ tháng 5.2018 chị quyết định sống ly thân với anh V từ đó đến nay.

Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 10.7.2008 và Nguyễn Văn X, sinh ngày 05.9.2013. Các con đang sống với chị T và bên ngoại tại ấp Q, xã P, huyện Sơn, tỉnh An Giang.

Về tài sản chung: Chị T yêu cầu tự thỏa thuận sử dụng, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: không có.

Thời gian ly thân đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn nên chị T yêu cầu ly hôn đối với anh Nguyễn Văn V.

- Về con chung: Chị yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con chung Nguyễn Thị Ngọc D và Nguyễn Văn X đến trưởng thành, yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

- Về tài sản chung: tự thỏa thuận sử dụng, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

- Về nợ chung: không có.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 18.9.2018 và quá trình giải quyết vụ kiện, bị đơn anh Nguyễn Văn V trình bày:

Do quen biết và yêu thương nhau nên vào năm 2007 anh và chị T được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi cưới, anh chị sống chung gia đình anh tại khu vực A, phường H, quận T, thành phố Cần Thơ.

Qúa trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 10.7.2008 và Nguyễn Văn X, sinh ngày 05.9.2013 đang sống với chị T tại ấp Q, xã P huyện S, tỉnh An Giang.

Anh thừa nhận quá trình chung sống anh có tham gia cờ bạc nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cự cải, phát sinh mâu thuẫn.

Nay qua yêu cầu ly hôn của chị T thì anh không đồng ý ly hôn, anh yêu cầu đoàn tụ.

- Về con chung: Nếu giải quyết ly hôn thì anh đồng ý ổn định cho chị T được quyền nuôi con chung Nguyễn Thị Ngọc D và Nguyễn Văn X đến trưởng thành, anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

- Về tài sản chung: Anh đồng ý tự thỏa thuận sử dụng, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

- Về nợ chung: không có.

Tòa án đã mở phiên hòa giải nhưng giữa các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn vẫn giữ nguyên theo yêu cầu ban đầu.

Ý kiến của Kiểm sát viên:

./ Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng là đúng trình tự thủ tục luật định.

./ Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn chị Trần Thị T đối với bị đơn anh Nguyễn Văn V; Ổn định cho chị T được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 10.7.2008 và Nguyễn Văn X, sinh ngày 05.9.2013 đến trưởng thành. Anh V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Trần Thị T với anh Nguyễn Văn V tự nguyện yêu thương, được gia đình hai bên tác hợp và có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, quận T nên hôn nhân của anh chị được xem là hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn nên chị T có đơn khởi kiện. Xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Xét về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh V chung sống từ năm 2007, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị T thì do tính tình vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng thường xuyên cự cải, anh V không chí thú làm ăn mà tham gia cờ bạc nên vợ chồng chính thức ly thân từ tháng 5.2018 đến nay. Nay chị yêu cầu ly hôn đối với anh V; Bị đơn anh Nguyễn Văn V thừa nhận trước đây anh có tham gia cờ bạc nên vợ chồng thường xuyên cự cải dẫn đến ly thân từ tháng 5.2018. Tuy nhiên. Hiện nay anh đã từ bỏ cờ bạc mà chí thú làm ăn. Vì vậy anh yêu cầu được đoàn tụ với chị T, cùng lo xây dựng gia đình và chăm lo các con.

Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn nên vợ chồng ly thân từ tháng 5.2018 đến nay, suốt thời gian qua vợ chồng đã bỏ mặc mà không tới lui chăm sóc lẫn nhau. Tại phiên tòa, chị T cương quyết ly hôn. Điều này cho thấy, tình trạng vợ chồng giữa chị T với anh V đã thật sự rạn nứt, thực tế hôn nhân đã chấm dứt, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp.

[3] Về con chung: Các đương sự thống nhất vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 10.7.2008 và Nguyễn Văn X, sinh ngày 05.9.2013 đang sống với chị T và bên ngoại. Ngoài ra vợ chồng không có con nuôi hay con riêng nào khác.

Tại phiên tòa, các đương sự thống nhất ổn định 02 con chung cho chị T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng đến trưởng thành nên Hội đồng xét xử ghi nhận là phù hợp theo quy định tại khoản 2 điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

Về vấn đề cấp dưỡng: Do đương sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện trên.

Về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung là thiêng liêng nên người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung; không ai được quyền cản trở người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền này. Ngoài ra, khi người trực tiếp nuôi con không đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung thì người không trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung: Đương sự yêu cầu tự thỏa thuận sử dụng, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về nợ chung: Đương sự trình bày không có nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn chị Trần Thị T phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điều 147, điều 220 và điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 8, khoản 1 điều 9, điều 51, 53, 56, 81, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí về lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị T đối với bị đơn anh Nguyễn Văn V.

1. Về hôn nhân: Chị Trần Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn V.

2. Về con chung: Chị Trần Thị T được quyền nuôi con chung tên Nguyễn Thị Ngọc D, sinh ngày 10.7.2008 và Nguyễn Văn X, sinh ngày 05.9.2013 đến trưởng thành. Anh Nguyễn Văn V có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con hàng tháng với mức 695.000 đồng/con/tháng cho đến khi cháu D và cháu X đủ 18 tuổi. Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Anh V có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung; không ai được quyền cản trở anh V thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Ghi nhận ý kiến của đương sự về yêu cầu tự thỏa thuận giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp về tài sản chung thì được giải quyết thành vụ kiện khác.

4. Về nợ chung: Ghi nhận ý kiến của đương sự về việc trình bày không có nợ chung. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp nợ chung thì được giải quyết thành vụ kiện khác.

5. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Trần Thị T phải nộp 300.000 đồng, tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị T đã nộp theo phiếu thu số 004246 ngày 20.8.2018 được chuyển thành án phí. Chị T đã nộp xong.

Về án phí cấp dưỡng: Anh Nguyễn Văn V phải nộp 300.000 đồng.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án niêm yết bản án tại địa phương để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2018/HNGĐ-ST ngày 17/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:89/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thốt Nốt - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về