Bản án 89/2017/HS- ST ngày 11/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 89/2017/HS- ST NGÀY 11/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 11/8/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 78/2017/TLST - HS ngày 20/6/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2017/QĐXXST - HS ngày 28/7/2017 đối với bị cáo:

1. Điêu Văn N (tên gọi khác: Không) - sinh năm 1988;

Nơi cư trú: Bản Nà Dân 2 xã Mường Kim huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Điêu Văn Sượt, sinh năm: 1960 và bà Lò Thị Lả, sinh năm: 1961 có vợ Hoàng Thị Lim sinh năm 1989 và có 01 con sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/02/2017 tạm giam từ ngày 28/02/2017, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu. (có mặt)

Người làm chứng:

Lò Văn T; sinh năm: 1990

Địa chỉ: Bản Muông, xã Mường Cang, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).

Tòng Văn T1; sinh năm: 1995

Địa chỉ: Bản Muông, xã Mường Cang, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 20 phút ngày 25/02/2017 tại bản Chiềng Ban 1 xã Mường Kim huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu, Công an huyện Than Uyên bắt quả tang Lò Văn T sinh năm: 1990 có hành vi “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, vật chứng thu giữ 01 gói Heroine. Tại Cơ quan điều tra T khai cùng với Tòng Văn T1 rủ nhau đi đến nhà Điêu Văn N ở bản Nà Dân 2 xã Mường Kim huyện Than Uyên để tìm mua Heroine về sử dụng. Căn cứ vào lời khai của T Cơ quan điều tra đã thu thập tài liệu chứng cứ, lấy lời khai của Tòng Văn T1 đồng thời ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Điêu Văn N. Tại cơ quan điều tra Điêu Văn N khai nhận như sau: Ngày 24/02/2017 N đi sang huyện Mù Cang Chải tìm mua Heroine, tại thị trấn Mù Cang Chải N gặp một người đàn ông tên “ Mùa” không rõ địa chỉ ở đâu hỏi mua trái phép 01 gói Heroine giá 600.000 đồng, mục đích về sử dụng và bán kiếm lời. Sau khi mua được Heroine N đã nhiều lần cấu một ít Heroine ra sử dụng, số Heroine còn lại N cất giấu trong túi quần trên người, khoảng 14 giờ ngày 25/02/2017 có Lò Văn T và Tòng Văn T1 đều đến hỏi mua Heroine. N đồng ý, T đưa số tiền 100.000 đồng còn T1 đưa 200.000 đồng cho Điêu Văn N, sau đó N lấy 02 gói Heroine ra bán cho T và T1 tương ứng với số tiền mà T và T1 đã đưa cho N, việc mua bán cả 3 người cùng biết. Sau khi mua được Heroine, T1 đã sử dụng hết, còn T mang gói Heroine đó đi về đến bản Chiềng Ban 1 xã Mường Kim huyện Than Uyên thì bị Công an huyện Than Uyên bắt quả tang, thu giữ 01 gói Heroine có khối lượng 0,02 gam. Khi bắt khám xét Công an huyện Than Uyên thu giữ 01 điện thoại di động; 01 chứng minh thư và số tiền 6.270.000 đồng của Điêu Văn N. Quá trình điều tra N khai số tiền300.000 đồng do bán Heroine mà có còn số tiền 5.970.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho vợ bị cáo là chị Hoàng Thị Lim.

Ngày 25/02/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên đã tiến hành mở niêm phong vật chứng thu giữ khi bắt quả tang của Lò Văn T, sau khi cân tịnh xác định: 01gói chất bột khô, màu trắng, vón cục, màu trắng có khối lượng 0,02 gam;

Cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ 0,02 gam chất bột khô, màu trắng, vóncục gửi giám định. Tại bản Kết luận giám định số: 118/GĐ - KTHS ngày 12/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: “ Mẫu chất bột khô, vón cục, màu trắng thu giữ khi bắt quả tang của Lò Văn T là Heroine”

Bản cáo trạng số: 49/CT- VKS ngày 20/6/2017 của Viện Kiểm Sát nhân dân huyện Than Uyên đã truy tố  bị cáo Điêu Văn N về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 điều 194 - Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Điêu Văn N đã bán trái phép 02 gói Heroine cho T và T1 cùng một lúc thu lời bất chính 300.000 đồng. Đối chiếu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của những người làm chứng, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố Điêu Văn N về tội " Mua bán trái phép chất ma túy". Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, đồng thời đã tích cực giúp Cơ quan điều tra Công an huyện Than Uyên điều tra khám phá một số vụ án mới góp phần giữ gìn An ninh trật tự xã hội, bị cáo là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật còn hạn chế nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p, q khoản 1, 2 điều 46 - Bộ luật hình sự năm 1999.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 194, điểm p, q khoản 1,2 điều 46 điều 47 - Bộ luật hình sự năm 1999; Xử phạt bị cáo Điêu Văn N từ 06 tháng đến 08 tháng tù; Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 điều 194 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, miễn án phí cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Điêu Văn N N trí với bản cáo trạng và không tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thấy hối hận về hành vi phạm tội của mình và cũng đã giúp đỡ Cơ quan điều tra khám phá ra một số vụ án mới, rất mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đãđược thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Than Uyên, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo HĐXX nhận thấy như sau: Điêu Văn N là người nghiện chất ma túy nên ngày 24/02/2017 N đi sang thịtrấn Mù Cang Chải tìm mua trái phép được một gói Heroine với giá 600.000 đồng. Sau khi mua được Heroine N mang về cấu ra một ít sử dụng số còn lại N cất giấu trong túi quần mặc trên người. Đến ngày 25/02/2017 cùng một lúc N bán trái phép cho T và T1 mỗi người 01 gói Heroine thu lời bất chính 300.000 đồng. Cơ quan điều tra đã thu giữ số Heroine của T gửi giám định, kết luận giám định khẳng định là “ chất ma túy Heroine có khối lượng 0,02 gam ”. Đối với gói Heroine của Tòng Văn T1 đã sử dụng hết, nhưng lời khai của T1 tại cơ quanđiều tra đã thừa nhận mua của N 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng, phù hợp với lời khai của T và lời khai của bị cáo. Do đó bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy" tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội, do đó Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đồng thời đã tích cực giúp Cơ quan điều tra Công an huyện Than Uyên điều tra khám phá một số vụ án mới góp phần giữ gìn An ninh trật tự xã hội theo văn bản số: 45/KLĐT ngày 22/5/2017 của Cơ quan điều tra Công an huyện Than Uyên, bị cáo là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật còn hạn chế nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p, q khoản 1, 2 điều 46, điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xét về nhân thân: Bị cáo không có tiền án tiền sự, sống tại địa phương chấp hành tốt chính sách pháp luật nhà nước. Tuy nhiên cũng cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo thành một người tốt, đồng thời cũng có tác dụng giáo dục phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét về điều kiện kinh tế của bị cáo còn khó khăn, nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 điều 194 Bộ luật hình sự là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng còn lại của vụ án: Số tiền 300.000 đồng là tiền bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước; 01 điện thoại di động và 01 chứng minh nhân dân mang tên Điêu Văn N do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

Về nguồn gốc số Heroine bị cáo khai mua của một người đàn ông không rõ địa chỉ ở đâu nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý. Đối với Lò Văn T và Tòng Văn T1 đã có hành vi mua trái phép Heroine của N mục đích để sử dụng, khối lượng Heroine thu giữ của T là 0,02 gam, xét thấy khối lượng 0,02 gam Heroine chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, và số Heroine của T1 đã sử dụng hết. Nên Công an huyện Than Uyên đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T và T1 là đúng quy định của pháp luật.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Đối với bị cáo Điêu Văn N là hộ thuộc xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định 900/QĐ - TTg ngày 20/6/2017 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn 2017 - 2020 nên HĐXX xem xét miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo:  Điêu Văn N phạm tội“ Mua bán trái phép chất ma tuý";

1. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 điều 194; điểm p, q khoản 1, 2 điều 46, điều 47 - Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo: Điêu Văn N 07 (bảy) tháng tù;

Thời hạn thi hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 25/02/2017.

2. Về vật chứng: Áp dụng điều 41- Bộ luật hình sự năm 1999 và điều 76 - Bộ luật tố tụng hình sự .

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000 đồng thu giữ của bị cáo.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Mobell màu đen,model  M628,  Imei:  354688056364247  và  01  chứng  minh  nhân  dân  số: 045063473 mang tên Điêu Văn N.

(Hiện số vật chứng đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục THADS huyện Than Uyên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/6/2017).

3. Về án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng cho bị cáo Điêu Văn N.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân tỉnh lai Châu.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2017/HS- ST ngày 11/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:89/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về