Bản án 88/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 88/2020/HS-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 69/2020/HS-ST ngày 04 tháng 8 năm 2020, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 346/2020/HSST-QĐ ngày 11 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN A, sinh ngày 08 tháng 9 năm 1996 tại Kiên Giang; Trú tại: Ấp Kinh Làng, xã Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Giới tính: Nam; Tôn giáo : Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Quách B, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1976; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02 tháng 6 năm 2020 tại Trại tạm giam Chí Hòa (có mặt).

Bị hại: Ông Nguyễn Hữu D, sinh 1973 Địa chỉ: 14 Lê Ngô Cát, Phường 7, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Anh E, sinh 2000 Địa chỉ: 62/57 Phan Văn Hân, Phường 17, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 21 tháng 3 năm 2020, Nguyễn Văn A đi bộ lang thang qua nhiều tuyến đường tìm tài sản sơ hở để trộm cắp bán lấy tiền mua ma túy. Khi bị cáo A đi ngang qua và nhìn thấy bảo vệ nhà hàng Tam Nguyên số 14 Lê Ngô Cát, Phường 7, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh đang ngủ gật nên bị cáo A đi thẳng vào phòng âm nhạc dùng để chỉnh nhạc cho khách hát với nhau ở khu vực tầng trệt lấy trộm 01 chiếc laptop hiệu Acer có kèm dây sạc pin rồi đi ra ngoài. Sau đó bị cáo A đi đến nhà số 369 Nguyễn Tri Phương tìm người bạn tên Phúc (không xác định được lai lịch) để mượn điện thoại di động gọi cho đối tượng Lương Thị T hỏi bán chiếc laptop, T nói bị cáo A mang laptop đến khách sạn Nguyên Kỳ số 14/6 Trần Thiện Chánh, Phường 12, Quận 10 để xem. Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 22 tháng 3 năm 2020, bị cáo A đến khách sạn gặp T và cùng 01 người tên Trước là bạn của T. Sau khi xem laptop xong, T gọi cho Nguyễn Anh E đến để mua laptop. E đến đồng ý mua laptop với giá 1.500.000 đồng nhưng chỉ đưa 1.300.000 đồng, thiếu lại 200.000 đồng rồi lấy laptop đi về. Sau đó, bị cáo A nhờ T mua ma túy giúp hết số tiền vừa có được nên T điện thoại cho một người tên Duy (không xác định được lai lịch) mua 12 số ma túy đá và sau đó Duy đến giao ma túy cho bị cáo A, lúc này bị cáo A lấy 02 số ma túy đá sử dụng chung với T. Khoảng 03 giờ 30 phút, bị cáo A rời khỏi khách sạn đi lang thang và sử dụng hết số ma túy còn lại. Đến khoảng 23 giờ ngày 23 tháng 3 năm 2020 khi bị cáo A đang đi lang thang tại khu vực ngã tư Nguyễn Tiểu La- Nhật Tảo, Quận 10 thì bị anh Nguyễn F là quản lý nhà hàng Tam Nguyên phát hiện, bắt giữ và báo cho Công an Phường 7, Quận 3 đến đưa A về lập hồ sơ xử lý.

Tại Cơ quan Cơ quan điều tra – Công an Quận 3, bị cáo Nguyễn Văn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 56/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 06 tháng 5 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3 kết luận: 01 laptop hiệu Acer, màu đen, mặt sau có số s/n: nxmorsv01021913e727600, sau máy có ghi Aspire E1- 431-B822G32Mnks; Bộ nhớ trong: 2048MB RAM; Thông số kỹ thuật inter Core i5, Celeron, CPU B280@ 1.7GHz(2CPUs) 1.7GHz, màn hình 14 inch, đã qua sử dụng vào thời điểm tháng 3 năm 2020 có giá là 3.033.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 58/CT-VKS-HS ngày 03 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn A thừa nhận đã có hành vi trộm cắp chiếc laptop của ông Nguyễn Hữu D với trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 3.033.000 đồng. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.300.000 đồng.

Về vật chứng của vụ án: Đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu nên miễn xét.

Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Anh E có đơn không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền đã mua laptop.

Bị cáo Nguyễn Văn A đã nhận thấy hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ lệnh bắt bị can để tạm giam số 11/L-CQCSĐT-ĐTTH ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 3, Kết luận định giá tài sản số 56/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 06 tháng 5 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3; Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan cùng với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Văn A là đối tượng nghiện ma túy, do cần tiền để thỏa mãn cơn nghiện nên đã tìm tài sản sơ hở để trộm cắp bán lấy tiền mua ma túy:Vào khoảng 23 giờ ngày 21 tháng 3 năm 2020, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của bảo vệ nhà hàng Tam Nguyên số 14 Lê Ngô Cát đang ngủ gật, lén lút đi vào phòng hát với nhau lấy trộm 01 chiếc máy laptop hiệu Acer của anh Nguyễn Hữu D trị giá 3.033.000 đồng tại thời điểm tháng 3 năm 2020 là đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo hoàn toàn biết rõ việc chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi sai trái sẽ bị xã hội lên án, pháp luật trừng trị; nhưng do động cơ tham lam và muốn có tiền nhằm để thỏa mãn cơn nghiện ma túy nên bị cáo đã cố ý thực hiện việc phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương; do vậy bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi mà mình đã gây ra.

[4] Tuy nhiên cũng xét, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ thật sự ăn năn hối cải; Do đó áp dụng các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Về hậu quả của vụ án: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại và người bị hại không có yêu cầu gì thêm do đó tòa miễn xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Anh E không yêu cầu bị cáo bồi thường, nhưng nghĩ phải buộc bị cáo nộp sung công quỹ nhà nước số tiền 1.300.000 đồng do phạm tội mà có là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Đối với đối tượng Lương Thị T và Nguyễn Anh E không biết laptop bị cáo bán do trộm cắp mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 3 không xử lý hình sự là có căn cứ.

[8] Đối với đối tượng tên Duy là người bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được nhân thân lai lịch cũng như tên Phúc, là người cho bị cáo mượn điện thoại liên hệ bán tài sản trộm cắp do không xác định được lai lịch nên không có căn cứ để xử lý là phù hợp.

[9] Buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 tại phiên tòa phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i ,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điểm b khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và Lệ phí số 97/2015/QH3 ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A 09 tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 02 tháng 6 năm 2020.

Buộc bị cáo nộp lại vào ngân sách nhà nước số tiền 1.300.000 đồng.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:88/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về