Bản án 88/2019/HSST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 88/2019/HSST NGÀY 29/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 92/2019/HSST ngày 08/08/2019. Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/QĐXXST-HS ngày 14/8/2019 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Trung T (tên gọi khác: không), sinh ngày 20/01/1992, tại xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Thôn 4, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; đảng phái, đoàn thể: Không; Quốc tịch: Việt Nam; bị cáo con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1971; bị cáo có vợ là Tào Thị G, sinh năm 1992 và 01 con; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 29/4/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ ngày 29/4/2019, Nguyễn Trung T đi bộ từ nhà tại thôn 4, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La ra quốc lộ 6 A đón xe ôtô taxi lên khu vực ngã ba chợ Noong Đúc, phường Chiềng Sinh, mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp và mua được của một người nam giới (không quen biết) 17 viên nén màu hồng được gói trong một gói nilon màu đen với giá 850.000đ (Tám trăm năm mươi nghìn). Sau khi mua được ma túy, T cất giấu vào trong túi quần bên trái phía trước đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi đang đi bộ ở khu vực tổ 1, phường C, thành phố S thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng là 01 gói nilon màu đen bên trong có 17 viên nén đồng dạng hình tròn màu hồng.

Quá trình điều tra Nguyễn Trung T đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc, mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu gửi giám định. Kết quả: Số 17 viên nén đồng dạng hình tròn màu hồng trong gói nilon màu đen có khối lượng 1,68 gam. Lấy 0,50 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, ký hiệu T. Còn lại 1,18 gam làm mẫu lưu kho ký hiệu T1.

Ngày 29/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Sơn La ra quyết định trưng cầu giám định số 1149/QĐ đối với mẫu gửi giám định ký hiệu T có phải là chất ma túy không ? Loại chất ma túy gì? Tổng khối lượng vật chứng thu giữ ? Khối lượng của mẫu gửi giám định?.

Kết luận giám định số 837 ngày 01/5/2019 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu giám định ký hiệu T là ma túy; Loại methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,50gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,68 gam loại methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số: 82/CT-VKSTP, ngày 07/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Nguyễn Trung T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

 - Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trung T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

- Xử phạt bị cáo: Nguyễn Trung T từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 29/4/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Trung T.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu huỷ: 1,18 gam methamphetamine, phong bì niêm phong ban đầu, vỏ bao vật chứng.

Trả lại cho bị cáo đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, 01 sim điện thoại đã qua sử dụng;

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết quả cân tịnh vật chứng, kết luận giám định; nhất trí với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát; nhất trí với bản luận tội cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phần tranh luận; bị cáo tỏ ra ăn năn và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trung T đều có lời khai nhận tội thống nhất với nội dung đã cất giữ 1,68 gam methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập hồi 01 giờ 15 phút, ngày 29/4/2019, tại khu vực tổ 1, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Nguyễn Trung T; cùng vật chứng thu giữ là 1,68 gam viên nén màu hồng, kết luận giám định là chất methamphetamine. Đồng thời phù hợp với lời khai của Trần Xuân H người đã chứng kiến Cơ quan điều tra bắt quả tang đối với Nguyễn Trung T.

[3] Với các căn cứ chứng minh trên đã có đủ cơ sở kết luận, ngày 29/4/2019 bị cáo Nguyễn Trung T đã có hành vi cất giữ trái phép 1,68 gam ma túy, là chất methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy.

Khi thực hiện hành vi tàng trữ phép chất ma túy bị cáo đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi. Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c,… methamphetamine …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”. Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự; nhân thân tốt; quá trình điều tra và tại phiên toà thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối hận, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử thấy cần thiết xử phạt bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đảm bảo biện pháp cải tạo, giáo dục riêng, phòng ngừa tội phạm chung.

[8] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp, không có tài sản có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng của vụ án: Đối với 1,18 gam methamphetamine còn lại sau giám định là chất ma túy Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, cùng phong bì niêm phong ban đầu + vỏ bao vật chứng không có giá trị sử dụng (đã niêm phong theo đúng quy định của pháp luật), cần tịch thu tiêu huỷ; đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, 01 sim điện thoại đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, trả lại cho bị cáo.

[10] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo khai mua của 01 một người nam giới (không biết họ tên, tuổi và địa chỉ). Ngoài lời khai của bị cáo không còn căn cứ nào khác, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở điều tra mở rộng vụ án.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trung T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, giữ: 29/4/2019.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Trung T.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 1,18 gam methamphetamine, 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon màu đen (đã niêm phong trong 01 chiếc phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Nguyễn Trung T. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 29/4/2019. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh ni lon màu đen; mẫu lưu kho T1=1,18 gam”. Mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có 06 chữ ký + 06 dòng ghi họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, đối tượng bị bắt và 01 dấu tròn dỏ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Sơn La).

Trả lại cho bị cáo: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, 01 sim điện thoại đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/8/2019 giữa Cơ quan Công an thành phố Sơn La và Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo Nguyễn Trung T phải nộp 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Trung T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 29/8/2019)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2019/HSST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:88/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về