Bản án 88/2019/HNGĐ-ST ngày 01/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 88/2019/HNGĐ-ST NGÀY 01/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 01 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 223/2019/TL.ST-HNGĐ, ngày 11 tháng 7 năm 2019 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2019/QĐXX-ST ngày 16 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị S (có mặt)

Địa chỉ: Tổ 02, ấp Bình T, xã Bình P, huyện Châu P, tỉnh An G.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu T (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp Nhơn T, xã Nhơn N, huyện Châu T, tỉnh Hậu G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị S trình bày: Bà và ông Nguyễn Hữu T tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Phú, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang vào năm 2015. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, ông T chỉ lo ăn chơi, không lo cho gia đình khiến cho hôn nhân L vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Vợ chồng không còn chung sống với nhau cách đây khoảng 02 năm. Nay T cảm vợ chồng không còn nên bà S yêu cầu được ly hôn với ông T. Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Thái L (nam), sinh ngày 16/11/2015. Bà S yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu L đến khi thành niên và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Quá trình tố tụng tại Tòa án, bị đơn ông Nguyễn Hữu T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Xác định việc thụ lý, hòa giải, thu thập chứng cứ cũng như thủ tục tố tụng tại phiên tòa của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Về nội dung giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị S được ly hôn với ông Nguyễn Hữu T; Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thái L (nam), sinh ngày 16/11/2015 cho bà S tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên, ông T chưa có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét. Về án phí đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Su khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Giữa bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Hữu T tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn năm 2015. Quá trình chung sống, giữa bà S và ông T phát sinh mâu thuẫn. Đến ngày 11/7/2019, bà S nộp đơn yêu cầu ly hôn với ông T, xét đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với ông T.

[3] Về nội dung giải quyết vụ án:

[3.1] Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Về quan hệ hôn nhân, giữa bà S và ông T tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp trên cơ sở giấy đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, quá trình chung sống giữa bà S và ông T phát sinh mâu thuẫn. Bà S cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, ông T chỉ lo ăn chơi, không lo cho gia đình khiến cho hôn nhân L vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Bà S và ông T đã cố gắng giải quyết nhưng không được nên vợ chồng đã ly thân khoảng 02 năm nay. Quá trình giải quyết, Tòa án đã nhiều lần động viên hàn gắn T cảm vợ chồng nhưng không thành, bà S xác định không còn T cảm với ông T nên cương quyết ly hôn. Đối với ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Từ những chứng cứ nêu trên xét thấy mâu thuẫn giữa bà S và ông T là trầm trọng, đời sống hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà S.

[3.2] Xét yêu cầu nuôi con chung của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

Bà S và ông T có 01 con chung là cháu Nguyễn Thái L (nam), sinh ngày 16/11/2015. Cháu L từ nhỏ đã sống chung với bà S, Su khi vợ chồng không còn sống chung thì cháu L do bà S nuôi dưỡng. Hiện tại chưa ghi nhận được ý kiến của ông T về yêu cầu nuôi con chung. Do đó, nhằm ổn định cuộc sống và điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng đối với cháu L nên giao cháu L cho bà S tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên. Bà S chưa có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên ông T chưa có nghĩa vụ cấp dưỡng. Ông T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[4] Từ những T tiết, căn cứ nêu trên, xét yêu cầu của bà S cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.

[5] Về án phí: Bà Nguyễn Thị S phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị S.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị S được ly hôn với ông Nguyễn Hữu T.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thái L (nam), sinh ngày 16/11/2015 cho bà Nguyễn Thị S nuôi dưỡng đến khi thành niên. Ông Nguyễn Hữu T chưa có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết, nếu Su này có phát sinh tranh chấp đương sự có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị S phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng). Chuyển 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà S đã nộp theo biên lai số 0021685 ngày 11 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành A thành tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm (bà S đã nộp xong).

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2019/HNGĐ-ST ngày 01/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:88/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về