Bản án 875/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 875/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 445/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 475/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Dương Hoàng O, sinh năm: 1988; địa chỉ: 152/54/31M đường L, Phường C, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

- Bị đơn: Ông Phan Minh H, sinh năm: 1986; địa chỉ: 1050 đường G, Phường G, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/6/2019, bản tự khai ngày 10/7/2019 và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay nguyên đơn, bà Nguyễn Dương Hoàng O trình bày: bà và ông Phan Minh H tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2015 và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 100 do Ủy ban nhân dân Phường G, Quận F cấp ngày 14/10/2015. Sau khi về chung sống với nhau thì vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do ông H không chịu lo làm ăn, không lo cho gia đình, thường xuyên gây gỗ đánh bà. Bà đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Từ năm 2017 thì bà đã về nhà mẹ của bà để sống và vợ chồng cũng đã ly thân từ đó cho đến nay. Nay bà xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông Phan Minh H nên bà yêu cầu được ly hôn với ông H.

Về con chung: bà và ông Phan Minh H có với nhau 01 (một) người con chung tên là: Phan Nguyễn Minh H, sinh ngày: 02/02/2016. Hiện nay trẻ Phan Nguyễn Minh H đang do ông Phan Minh H trực tiếp nuôi dưỡng, do hiện nay bà chưa có điều kiện để nuôi con nên bà tiếp tục giao trẻ Phan Nguyễn Minh H cho ông Phan Minh H nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hai bên tự thỏa thuận giải quyết Về tài sản chung: không có Về nợ chung: không có.

Bị đơn ông Phan Minh H vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được lời khai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn vắng mặt nhưng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tham gia tố tụng. Việc đưa vụ án ra xét xử đúng theo quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: bà Nguyễn Dương Hoàng O và ông Phan Minh H tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn. Như vậy, hôn nhân giữa bà O và ông H là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Theo bà O trình bày thì khi về sống chung với nhau vợ chồng bà sống không hạnh phúc nguyên nhân là do ông H không chăm lo cho cuộc sống gia đình, thường xuyên gây gỗ và đánh bà. Từ năm 2017 đến nay thì vợ chồng đã sống ly thân. Mặc dù, mâu thuẫn xảy ra trong một thời gian dài nhưng ông H và bà O không có biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, mâu thuẫn giữa bà O và ông H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị, Hội đồng xét xử cho bà Nguyễn Dương Hoàng O được ly hôn với ông Phan Minh H là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: giao trẻ Phan Nguyễn Minh H, sinh ngày 02/02/2016 cho ông Phan Minh H tiếp tục nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con: hai bên tự thỏa thuận giải quyết. Về tài sản chung: không có

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết:

Bà Nguyễn Dương Hoàng O có đơn xin ly hôn với ông Phan Minh H nên Tòa án nhân dân Quận 6 thụ lý và giải quyết theo khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Bị đơn ông Phan Minh H vắng mặt nhưng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng triệu tập ông Phan Minh H đến Tòa án để tự khai; tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa. Nhưng tại phiên tòa hôm nay ông Phan Minh H vẫn tiếp tục vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Theo như lời trình bày của bà Nguyễn Dương Hoàng O thì trong thời gian sống chung bà và ông Phan Minh H thường xuyên xảy ra cãi vã lẫn nhau nguyên nhân là do ông H không quan tâm đến gia đình, không chịu lo làm ăn và còn đánh bà.

Tại kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân Phường G, Quận F ngày 16/8/2019 về tình trạng hôn nhân của ông H và bà O cho biết: nguyên nhân mâu thuẫn giữa ông H và bà O là sống không hợp nhau thường xuyên gây gỗ với nhau. Đến năm 2018 bà O bỏ nhà đi một mình cho đến nay, hiện đang sống nơi khác (ở với người khác), hiện đứa con trai đang do ông Phan Minh H nuôi.

Hội đồng xét xử xét thấy, Theo Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “ Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau…” nhưng theo như lời trình bày của bà O và theo kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân Phường G, Quận F thì giữa bà O và ông H đã không còn có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Vợ chồng bà O, ông H đã sống ly thân với nhau hơn hai năm nay. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập ông H đến Tòa án để trình bày ý kiến, động viên hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng tại phiên tòa hôm nay ông Phan Minh H vẫn tiếp tục vắng mặt. Điều này chứng tỏ ông H cũng không còn tha thiết để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, mâu thuẫn giữa bà bà Nguyễn Dương Hoàng O và ông Phan Minh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định cho bà Nguyễn Dương Hoàng O được ly hôn với ông Phan Minh H là phù hợp theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: bà Nguyễn Dương Hoàng O và ông Phan Minh H có với nhau 01 (một) người con chung tên là Phan Nguyễn Minh H, sinh ngày: 02/02/2016. Bà O đồng ý để cho ông H nuôi dưỡng trẻ H, hiện nay trẻ H đang do ông Phan Minh H nuôi dưỡng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục giao trẻ Phan Nguyễn Minh H, sinh ngày: 02/02/2016 cho ông Phan Minh H tiếp tục nuôi dưỡng Về cấp dưỡng nuôi con: Hai bên tự thỏa thuận giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Nếu có tranh chấp sẽ giải quyết trong một vụ án khác.

[5] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) do bà Nguyễn Dương Hoàng O nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81,82,83,84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

1. Về quan hệ vợ chồng: bà Nguyễn Dương Hoàng O được ly hôn với ông Phan Minh H Giấy chứng nhận kết hôn số 100 do Ủy ban nhân dân Phường G, Quận F cấp ngày 24/10/2015 cho bà Nguyễn Dương Hoàng O và ông Phan Minh H không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Giao trẻ Phan Nguyễn Minh H, sinh ngày: 02/02/2016 cho ông Phan Minh H tiếp tục nuôi dưỡng

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Hai bên tự thỏa thuận giải quyết.

Ông Phan Minh H có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi khi bà Nguyễn Dương Hoàng O đến thăm nom chăm sóc con chung. Vì lợi ích của con khi cần thiết đôi bên đều có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Nếu có tranh chấp sẽ giải quyết trong một vụ án khác 5. Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) do bà Nguyễn Dương Hoàng O nộp được khấu trừ vào 300.000đ ( Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà O đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0011310 ngày 25/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6. Bà O đã nộp đủ án phí.

6. Về quyền kháng cáo: đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ( mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

7. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 875/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:875/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về