TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHI SƠN - TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 87/2020-HSST NGÀY 31/07/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 31/ 7/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 84/2020/TLST- HS ngày 30/6/20120 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2020 ngày 15/7/2020 đối với bị cáo :
Đỗ Văn T Sinh ngày 18/01/1999 tại xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Nơi ở hiện nay: Thôn Nam Hải, xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (Nay là thôn Nam Hải, phường Hải Bình, Thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; dân tôc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn Quý (Đã chết). Con bà: Ngô Thị Tuyến; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/02/2020 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Khắc Hải - là Trợ giúp viên pháp lý của chi nhánh TGPL số 7 thuộc trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thanh Hóa
* Người bị hại: Cháu Phạm Thị Ngọc Tr - Sinh ngày 24/5/2011 Trú tại: Thôn Liên Hưng, xã Hải Bình, Huyện Tĩnh Gia ( nay là Phường Hải Bình, Thị xã Nghi Sơn, Tỉnh Thanh Hóa).
* Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Phạm Thị H – sinh năm 1988 ( mẹ đẻ cháu Trúc).
Trú tại: Thôn Liên Hưng, xã Hải Bình, Huyện Tĩnh Gia ( nay là Phường Hải Bình, Thị xã Nghi Sơn, Tỉnh Thanh Hóa).
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Thùy. Sinh năm 1993 (vắng mặt) Trú tại : Thôn Liên Thịnh, xã Hải Bình, Huyện Tĩnh Gia ( nay là Phường Hải Bình, Thị xã Nghi Sơn, Tỉnh Thanh Hóa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 11/02/2020, Đỗ Văn T đi bộ trên đoạn đường thuộc thôn Liên Hưng, xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa (nay là thôn Liên Hưng, phường Hải Bình, Thị xã Nghi Sơn, Thanh Hóa) thì gặp cháu Phạm Thị Ngọc Tr đang đi bộ cùng chiều. Lúc này, Tài quan sát thấy trên cổ cháu Trúc có đeo 01 dây chuyền bằng bạc nên đã nảy sinh ý định cướp tài sản. Tài tiến lại gần từ phía sau, dùng hai tay túm vào cổ cháu Trúc, ghì Trúc ngồi xuống đất rồi dùng tay giật mạnh sợi dây chuyền khiến dây bị đứt. Tài cầm sợi dây chuyền bỏ chạy và mang đến cửa hàng vàng bạc Chi Điệp thuộc thôn Tân Hải, xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia (nay là thôn Tân Hải, phường Hải Bình, huyện Tĩnh Gia) bán cho chị Nguyễn Thị Thùy được số tiền 90.000đ (chín mươi nghìn đồng) và tiêu sài cá nhân hết.
Tại kết quả giám định của Viện Ngọc học và trang sức xác định chiếc vòng Đỗ Văn T cướp của cháu Phạm Thị Ngọc Tr có tỷ lệ 99,73% hàm lượng Bạc.
Tại kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 18/KLDGTS ngày 18/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tĩnh Gia thể hiện: 01 sợi dây chuyền bằng bạc, trọng lượng 2,25 chỉ có giá trị là 130.000 đồng (một trăm ba mươi nghìn đồng).
Quá trình điều tra xác định cháu Phạm Thị Ngọc Tr sinh ngày 24/5/2011, tính đến ngày bị Tài cướp tài sản (tức ngày 11/02/2020) Trúc được 08 tuổi, 08 tháng, 18 ngày.
Quá trình điều tra Đỗ Văn T đã khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình. Đồng thời tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, người bị hại có đơn xin miễn giảm trách nhiệm hình sự cho Đỗ Văn T.
Đối với Nguyễn Thị Thùy đã có hành vi mua sợi dây chuyền do Đỗ Văn T cướp được. Tuy nhiên, khi mua, Thùy không biết đó là tài sản do Tài phạm tội mà có nên hành vi của Nguyễn Thị Thùy không cấu thành tội phạm. Đối với số tiền 90.000đ Tài bán dây chuyền cho chị Thùy, chị Thùy không yêu cầu Tài phải bồi thường.
- Về thu giữ, tạm giữ đồ vật tài liệu:
- 01 sợi dây chuyền bằng bạc, màu trắng, có chiều dài 36cm, tổng trọng lượng 2,25 chỉ do Nguyễn Thị Thùy giao nộp 12/02/2020.
- 01 USB nhãn hiệu TOSHIBA màu bạc, dung lượng 8Gb, bên trong chứa đựng 01 đoạn video được trích xuất từ camera an ninh, dung lượng 48020 kb.
- Về xử lý vật chứng:
- Đối với sợi dây chuyền bằng bạc, xét thấy không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án Cơ quan điều tra đã trả lại cho người đại diện hợp pháp là chị Phạm Thị H (mẹ đẻ của cháu Phạm Thị Ngọc Tr).
Đối với 01 USB nhãn hiệu TOSHIBA màu bạc, dung lượng 8Gb, bên trong chứa đựng 01 đoạn video được trích xuất từ camera an ninh, dung lượng 48020 kb được đi kèm hồ sơ vụ án để phục vụ cho công tác xét xử.
- Về phần dân sự: Các bên đã thỏa thuận xong và không có yêu cầu đề nghị gì.
Tại Bản cáo trạng số: 100/CTr-VKSTXNS, ngày 29/06/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Nghi Sơn - Thanh Hoá, truy tố bị cáo Đỗ Văn T về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm e khoản 2, Điều 168 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện VKS giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
*Áp dụng điểm e khoản 2, Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù.
* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại do bị cáo chiếm đoạt và không có yêu cầu đề nghị gì.
Do bị cáo là hộ nghèo, cận nghèo nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016, quy định về án phí, lệ phí Tòa án, miễn nộp án phí cho bị cáo.
Tại phiên tòa bị cáo nhận tội không có ý kiến tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
* Ý kiến của người đại diện hợp pháp của người bị hại: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
* Ý kiến của người bào chữa: Thống nhất với tội danh và áp dụng điều luật, tuy nhiên do bị cáo nhận thức pháp luật thiếu hiểu biết, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và đã khắc phục hậu quả, người đại diện hợp pháp của người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo đã đầu thú khai báo hành vi phạm tội, bị cáo đã từng tham gia trong quân đội. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an Thị xã Nghi Sơn, Điều tra viên Cơ quan CSĐT Công an Thị xã Nghi Sơn, Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Nghi Sơn, Kiểm sát viên VKSND Thị xã Nghi Sơn trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 11/02/2020, tại đoạn đường thuộc thôn Liên Hưng, xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay là phường Hải Bình, Thị xã Nghi Sơn, Tỉnh Thanh Hóa), Đỗ Văn T đã có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt 01 sợi dây chuyền bạc trị giá 130.000 đồng của cháu Phạm Thị Ngọc Tr SN 24/5/2011 (dưới 16 tuổi) sau đó đem bán cho chị Nguyễn Thị Thùy lấy 90.000đ tiêu xài cá nhân.
Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, tang vật thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa.
Quyết định truy tố và lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn là có căn cứ pháp luật. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận : Đỗ Văn T đã có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt 01 sợi dây chuyền bạc trị giá 130.000 đồng của cháu Phạm Thị Ngọc Tr SN 24/5/2011 (dưới 16 tuổi). Do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội :" Cướp tài sản" với tình tiết định khung tăng nặng:" Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi " Tội danh và hình phạt áp dụng được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.
[3] Tính chất vụ án:
Từ động cơ mục đích tư lợi muốn có tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo Đỗ Văn T đã có hành vi dùng vũ lực (dùng hai tay túm vào cổ cháu Trúc, ghì Trúc ngồi xuống đất) để chiếm đoạt sợi dây chuyền trị giá 130.000đ của cháu Phạm Thị Ngọc Tr SN 24/5/2011 (dưới 16 tuổi).
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng tới tình hình trị an xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Do đó cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo:
* Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
* Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra truy tố và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo. Sau khi phạm tội bị cáo đã có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại dưới 16 tuổi có đơn đề nghị miễn giảm trách nhiệm hình sự và tại phiên tòa đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị báo đã đầu thú khai báo toàn bộ hành vi phạm tội, bản thân bị cáo đã từng tham gia quân đội. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, giảm cho bị cáo 1 phần hình phạt thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có thể giáo dục cải tạo sớm trở thành người lương thiện.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
Quá trình điều tra truy tố bị cáo và gia đình bị hại đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại. Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của người bị hại dưới 16 tuổi không có yêu cầu gì khác về phần dân sự nên không xem xét. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng không có yêu cầu gì về phần dân sự nên không xem xét tại phiên tòa.
[6]. Về tang vật:
Đối với sợi dây chuyền bằng bạc, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho người đại diện hợp pháp của bị hại là chị Phạm Thị H (mẹ đẻ của cháu Phạm Thị Ngọc Tr) là phù hợp.
Đối với 01 USB nhãn hiệu TOSHIBA màu bạc, dung lượng 8Gb, bên trong chứa đựng 01 đoạn video được trích xuất từ camera an ninh, dung lượng 48020 kb được đi kèm hồ sơ vụ án để phục vụ cho công tác xét xử.
[7]. Về hình phạt bổ sung:
Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về án phí: Do bị cáo là hộ nghèo, cận nghèo được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
*Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Đỗ Văn T phạm tội: “ Cướp tài sản ” .
* Xử phạt: Đỗ Văn T 7 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/02/2020.
* Về trách nhiệm dân sự: Công nhận bị hại đã nhận đủ tài sản do bị cáo chiếm đoạt.
* Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016, quy định về án phí, lệ phí Tòa án, miễn nộp án phí cho bị cáo.
Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại, người bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể được tống đạt hoặc được niêm yết bản án.
Bản án 87/2020-HSST ngày 31/07/2020 về tội cướp tài sản
Số hiệu: | 87/2020-HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tĩnh Gia (cũ) - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về