Bản án 87/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 87/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/ 2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2020/HSST-QĐ ngày 03/9/2020 đối với các bị cáo:

1. Hà Thị Ng (tên gọi khác: Không), sinh ngày 15 tháng 11 năm 1983 tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nơi ĐKNKTT: Bản M, xã Chiềng M, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): Không; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Hà Văn L, sinh năm 1952 và bà Lò Thị L, sinh năm 1960; Bị cáo có chồng là Hoàng Văn T (đã chết) có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07 tháng 5 năm 2020 đến nay. Có mặt.

Nhân thân: Tại bản án số 87/HSST ngày 24/10/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 24 tháng tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt chung cho 2 tội là 48 tháng tù.

2. Lò Văn L (tên gọi khác: Không), sinh ngày 15 tháng 11 năm 1976 tại huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La; nơi ĐKNKTT: Bản Sài Lư, xã Chiềng Ch, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lò Văn Ó (đã chết) và bà Lò Thị C (đã chết); Bị cáo có vợ là Lò Thị Ch, sinh năm 1974, có 02 con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07 tháng 5 năm 2020 đến nay. Có mặt.

3. Nguyễn Xuân D (tên gọi khác: Không), sinh ngày 06 tháng 12 năm 1973 tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nơi ĐKNKTT: Thôn , xã Chiềng M, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Xuân D, sinh năm 1940 và bà Tạ Thị G (đã chết); Bị cáo có vợ là Đặng Thị Th, sinh năm 1977 (đã ly hôn), có 01 con lớn sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06 tháng 5 năm 2020 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 10 phút ngày 06/5/2020 tổ công tác Công an huyện Mai Sơn làm nhiệm vụ tại thôn Hoàng Văn Thụ, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La phát hiện Nguyễn Xuân D có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy trắng có dòng kẻ bên trong chứa chất bột màu trắng nghi Heroine (tại túi áo ngực bên trái D đang mặc). Nguyễn Xuân D khai gói vật chứng thu giữ là Heroine của D mua của Hà Thị Ng sinh năm 1983 và Lò Văn L, sinh năm 1976 cùng trú tại bản Mạt, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn.

Ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Xuân D: 01 bật lửa ga nhãn hiệu “Thống Nhất” màu tím; 01 bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng Long” màu vàng bên trong chứa 01 mảnh giấy bạc 02 mặt bị cháy xám; 01 điện thoại di động nhãn hiệu TITANIC X1 màu xanh đen kèm 01 sim điện thoại; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S biển kiểm soát 26K1- 022.15.

Trên cơ sở vào lời khai của Nguyễn Xuân D, ngày 07/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp người, chỗ ở, đồ vật và ra lệnh giữ người và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Hà Thị Ng, Lò Văn L.

Kết quả thu giữ: 250.000 đồng (dưới đệm đầu giường ngủ nhà Ng); 610.000 đồng trong túi xách màu hồng (tại đầu giường ngủ nhà Ng); 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng Long” màu vàng bên trong chứa 01 mảnh giấy bạc bị đốt cháy; số tiền 200.000 đồng tại túi áo trước áo khoác dài tay màu trắng để trên xe mô tô biển kiểm soát 26K1- 6149; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel P51 màu hồng vàng, kèm 01 sim điện thoại; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Duos màu vàng, kèm 01 sim điện thoại (tại đầu giường ngủ nhà Ng); 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Hà Thị Ng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 16 giờ, ngày 05/5/2020 Hà Thị Ng đi chăn trâu tại khu vực dốc bản Mạt, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Ng gặp một người đàn ông dân tộc Mông (không biết tên, địa chỉ) đang điều khiển xe môtô theo hướng xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn đi huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, Ng hỏi và mua 01 gói Heroine được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ với giá 50.000 đồng.

Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Ng mang gói Heroine về nhà cất giấu dưới gối ở giường ngủ và nói cho Lò Văn L (là người yêu của Ng) biết việc mua và cất giấu gói Heroine.

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 06/5/2020, Nguyễn Xuân D gọi điện thoại cho Ng hỏi mua Heroine, Ng đồng ý và bảo D đến nhà. Sau đó, D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 26K1 - 022.15 đến gặp Ng và L hỏi mua 200.000 đồng Heroine. L nhận tiền cất vào túi áo khoác dài tay màu trắng của L để trên xe mô tô biển kiểm soát 26K1- 6149 để ngoài sân. Đồng thời Ng lấy gói Heroine cất dưới gối đưa cho D, sau đó Ng đi ra ngoài cho bò ăn. D lấy một phần cùng L sử dụng, sau khi D và L sử dụng xong thì Ng vào cầm mảnh giấy bạc lên đốt để sử dụng nhưng đã hết. Phần còn lại D cất giấu trong túi áo ngực bên trái rồi điều khiển xe mô tô đi về. Khi đi đến khu vực thôn Hoàng Văn Thụ, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an huyện Mai Sơn phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như nêu trên.

Ngày 06/5/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn phối hợp với phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng thu giữ của Nguyễn Xuân D có khối lượng chất bột nén màu trắng nghi Heroine là 0,11 gam, lấy toàn bộ làm mẫu ký hiệu M trưng cầu giám định.

Tại Kết luận giám định số 726/KLGĐ ngày 08/5/2020 của phòng K thuật Hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:“Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma túy; Loại Heroine. Khối lượng mẫu gửi giám định là M = 0,11gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,11gam; Loại Heroine”.

Về nguồn gốc Heroine bị thu giữ, Ng khai mua của người đàn ông (không biết tên, địa chỉ) tại khu vực dốc bản Mạt, xã Chiềng Mung huyện Mai Sơn sau đó bán cho Nguyễn Xuân D (việc mua bán không có người chứng kiến). Ngoài lời khai của Ng cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xác minh mở rộng vụ án. Buộc các bị can Hà Thị Ng, Lò Văn L và Nguyễn Xuân D phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng 0,11 gam Heroine thu giữ trong vụ án.

Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số 78/CT-VKSTP ngày 13/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Hà Thị Ng, Lò Văn L về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015; Bị cáo Nguyễn Xuân D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, các bị cáo Hà Thị Ng; Lò Văn L, Nguyễn Xuân D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Xuân D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo Hà Thị Ng, Lò Văn L về tội Mua trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hà Thị Ng, Lò Văn L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Hà Thị Ng từ 26 đến 29 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 24 đến 27 tháng tù.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân D từ 12 đến 15 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 0,08 gam Heroine có ký hiệu M; 01 vỏ phong bì do Công an huyện Mai Sơn phát hành chứa vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh giấy màu trắng chứa ma túy; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu; 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; 02 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 02 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy xém; 01 bật lửa ga nhãn hiệu Thống nhất màu tím; 01 vỏ phong bì do phòng K thuật hình sự Công an tỉnh phát hành chứa mẫu giám định hoàn lại; 01 vỏ phong bì do phòng K thuật hình sự Công an tỉnh phát hành chứa số tiền gửi giám định; 01 vỏ phong bì do Công an huyện Mai Sơn phát hành chứa vỏ bao thuốc lá, mảnh giấy bạc đã đốt cháy.

Tịch thu sung Ngân sách nhà nước: 200.000 đồng thu giữ của bị cáo Hà Thị Ng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S, sơn màu đen trắng, gắn biển kiểm soát 26K1- 022.15, số khung RLHJC526XDY172540, số máy JC52E 1089676, xe đã qua sử dụng cũ thu giữ của bị cáo Nguyễn Xuân D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu TITANIC X1 màu xanh đen kèm 01 sim điện thoại thu giữ của bị cáo Nguyễn Xuân D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Duos màu vàng, kèm 01 sim điện thoại thu giữ của bị cáo Hà Thị Ng.

Trả lại cho bị cáo Hà Thị Ng: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel P51 màu hồng vàng, kèm 01 sim điện thoại; 01 giấy chứng minh nhân dân số 050917449 mang tên Hà Thị Ng; số tiền 860.000 đồng.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo các Hà Thị Ng, Lò Văn L, Nguyễn Xuân D nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La, Công an huyện Mai Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi của các bị cáo thấy rằng: Tại phiên tòa các bị cáo Hà Thị Ng, Lò Văn L, Nguyễn Xuân D giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án khai nhận: Ngày 06/5/2020 bị cáo Nguyễn Xuân D đã có hành vi cất giấu trái phép 0,11 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Trên cơ sở lời khai của bị cáo D cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Mai Sơn tiến hành bắt người trong trường hợp khẩn cấp khám xét chỗ ở Hà Thị Ng, Lò Văn L cả hai cùng khai nhận đã bán 0,11 gam Heroine cho D.

Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ: Lời khai nhận tội của các bị cáo; Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 10 phút ngày 6/5/2020 tại thôn Hoàng Văn Thụ, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La cùng vật chứng thu giữ là 0,11 Heroine; Lệnh khám xét khẩn cấp; Biên bản khám xét; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu thu; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 726/KLGĐ ngày 08/5/2020 của phòng K thuật Hình sự Công an tỉnh Sơn La; Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của anh Vũ Văn Biên là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo Nguyễn Xuân D; phù hợp với lời khai của anh Lò Văn Thanh người chứng kiến việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp đối với bị cáo Hà Thị Ng, Lò Văn L và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hà Thị Ng, Lò Văn L có hành vi cất giấu 0,11 gam Heroine nhằm mục đích bán kiếm lời. Do đó, hành vi của các bị cáo Ng, L đã vi phạm tình tiết định tội quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 7 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bị cáo Nguyễn Xuân D đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn và Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn xét xử các bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oai sai.

Bị cáo Hà Thị Ng là người khởi sướng, chi số tiền 50.000 đồng để mua ma túy, bị cáo Lò Văn L tiếp nhận ý trí của bị cáo Ng cùng Ng bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích để kiếm lời. Các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ, vai trò chặt chẽ trước, thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy và hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Xét cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo, răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Hà Thị Ng có nhân thân xấu; bị cáo Lò Văn L, Nguyễn Xuân D đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đối với bị cáo Nguyễn Xuân D trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông tên bán ma túy cho bị cáo Hà Thị Ng (Ng không biết rõ tên tuổi, địa chỉ). Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Mai Sơn không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án. Do đó buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma tuý bị thu giữ.

[7] Vật chứng vụ án: Đối với 0,08 gam Heroine có ký hiệu M; 01 vỏ phong bì do Công an huyện Mai Sơn phát hành chứa vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh giấy màu trắng chứa ma túy; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu; 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; 02 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 02 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy xém; 01 bật lửa ga nhãn hiệu Thống nhất màu tím; 01 vỏ phong bì do phòng K thuật hình sự Công an tỉnh phát hành chứa mẫu giám định hoàn lại; 01 vỏ phong bì do phòng K thuật hình sự Công an tỉnh phát hành chứa số tiền gửi giám định; 01 vỏ phong bì do Công an huyện Mai Sơn phát hành chứa vỏ bao thuốc lá, mảnh giấy bạc đã đốt cháy là vật nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành, vật không còn giá trị sử dụng, vật các bị cáo dùng cất giấu, sử dụng trái phép chất ma túy, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của Hà Thị Ng là tiền bị cáo phạm tội mà có; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S biển kiểm soát 26K1- 022.15, số khung RLHJC526XDY172540, số máy TC52E 1089676, xe đã qua sử dụng cũ, bị cáo Nguyễn Xuân D dùng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội; 01 điện thoại di động nhãn hiệu TITANIC X1 màu xanh đen kèm 01 sim điện thoại của bị cáo Nguyễn Xuân D và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Duos màu vàng, kèm 01 sim điện thoại thu giữ của bị cáo Hà Thị Ng dùng là công cụ dùng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước, theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel P51 màu hồng vàng, kèm 01 sim điện thoại; 01 giấy chứng minh nhân dân số 050917449 mang tên Hà Thị Ng; số tiền 860.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định đây là tài sản hợp pháp của bị cáo Ng không liên qua đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo Hà Thị Ng, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

[8] Về án phí: Do hành vi phạm tội của các bị cáo nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố các bị cáo Hà Thị Ng, Lò Văn L phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Hà Thị Ng 28 (Hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 07/5/2020).

Xử phạt bị cáo Lò Văn L 25 (Hai mươi lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 07/5/2020).

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân D 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 06/5/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 0,08 gam Heroine có ký hiệu M; 01 vỏ phong bì do Công an huyện Mai Sơn phát hành chứa vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh giấy màu trắng chứa ma túy; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu; 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; 02 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 02 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy xém; 01 bật lửa ga nhãn hiệu Thống nhất màu tím; 01 vỏ phong bì do phòng K thuật hình sự Công an tỉnh phát hành chứa mẫu giám định hoàn lại; 01 vỏ phong bì do phòng K thuật hình sự Công an tỉnh phát hành chứa số tiền gửi giám định; 01 vỏ phong bì do Công an huyện Mai Sơn phát hành chứa vỏ bao thuốc lá, mảnh giấy bạc đã đốt cháy.

Tịch thu sung Ngân sách nhà nước: 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Hà Thị Ng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S biển kiểm soát 26K1- 022.15, số khung RLHJC526XDY172540, số máy TC52E 1089676, xe đã qua sử dụng cũ thu giữ của bị cáo Nguyễn Xuân D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu TITANIC X1 màu xanh đen kèm 01 sim điện thoại thu giữ của bị cáo Nguyễn Xuân D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Duos màu vàng, kèm 01 sim điện thoại thu giữ của bị cáo Hà Thị Ng.

Trả lại cho bị cáo Hà Thị Ng: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel P51 màu hồng vàng, kèm 01 sim điện thoại; 01 giấy chứng minh nhân dân số 050917449 mang tên Hà Thị Ng; số tiền 860.000đ (tám trăm sáu mươi nghìn đồng).

(Số lượng, khối lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng, tài sản theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/8/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14: Buộc các bị cáo Hà Thị Ng, Lò Văn L, Nguyễn Xuân D mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 24/9/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:87/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về