TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 87/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 88/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa ngày 22 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
TRƯƠNG ĐÌNH C, sinh năm 1993; Hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Đình K và bà Trương Thị L.
Tiền án:
- Tại Bản án số 89/2015/HSST ngày 18/12/2015, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/5/2016, chấp hành xong án phí ngày 21/02/2017.
- Tại Bản án số 122/2017/HSST ngày 15/12/2017, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/02/2019, chấp hành xong án phí ngày 06/02/2018. Tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 12/8/2015, Công an xã Đồng Quang, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01 xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 28/9/2015, Công an thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 274 xử phạt về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chấp hành xong ngày 16/11/2015); Ngày 08/02/2017, Ủy ban nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 365 xử phạt về hành vi vận chuyển trái phép pháo (chấp hành xong ngày 14/3/2017); ngày 17/3/2017 Công an huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 83 xử phạt về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành xong ngày 17/3/2017).
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/10/2019 đến nay tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.
- Bị hại: Ông Phạm Duy T, sinh năm 1956 và bà Hồ Thị B, sinh năm 1958; đều trú tại: Thôn H, xã M, huyện G, tỉnh Hải Dương. (Đều vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)
- Người làm chứng: Đều vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1981; trú tại: Thôn H, xã M, huyện G, tỉnh Hải Dương.
+ Anh Phùng Văn Ư, sinh năm 1973; trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trương Đình C đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Khoảng 12 giờ ngày 23/9/2019, C điều khiển xe máy nhãn hiệu CPI biển kiểm soát 34K4-5090 do C mượn của anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1983, trú tại: thôn T, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương từ nhà đến khu vực xã M, huyện G, tỉnh Hải Dương để tìm kiếm gia đình nào sơ hở C sẽ trộm cắp tài sản rồi đem bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Khi đi qua cổng nhà anh Nguyễn Ngọc Q ở thôn H, xã M, huyện G, tỉnh Hải Dương, C thấy cổng không khóa. C đi vòng qua cổng nhà anh Q khoảng 3 lần để quan sát, thấy không có người. C dựng xe ngay cổng nhà anh Q rồi đi bộ qua cổng để vào sân nhà anh Q. Tại đây, C quan sát thấy một bao dứa màu vàng bên trong đựng thóc để dựa vào tường bên phải nhìn từ cổng vào. Bao thóc là tài sản của bà Hồ Thị B. Bà B để nhờ bao thóc tại sân nhà anh Q. C thấy bao thóc chưa buộc miệng bao nên C đi quay ra ngoài cổng, tìm được một sợi dây dứa màu trắng rồi quay lại sân buộc miệng bao lại. Lúc này, C nghe thấy có tiếng người đi ngoài cổng nhà anh Q nên C đi ra ngoài cổng quan sát. C ngồi lên xe máy chờ, khoảng 5 phút sau, C lại đi vào sân nhà anh Q, C đi lại gần vị trí để bao thóc rồi nhanh chóng bê bao thóc ra ngoài đường, cho lên xe máy rồi nổ xe máy chạy thoát. C mang bao thóc này đến nhà anh Phùng Văn Ư để hỏi bán. Khi bán C nói với anh Ư đây là bao thóc của C, do cần tiền nên bán. Anh Ư đồng ý mua với giá là 200.000 đồng. Số tiền bán bao thóc, C đã chi tiêu cá nhân hết.
Tại Kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐ ngày 08/10/2019, Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự đã kết luận: 42 kg thóc, loại thóc tám thơm là 420.000 đồng, 01 bao tải dứa màu vàng, kích thước 70x40 cm, tình trạng cũ đã qua sử dụng là 3.000 đồng. Tổng số tiền của 2 loại tài sản trên là 423.000 đồng.
Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lộc đã trả lại cho bà Hồ Thị B 01 bao dứa màu vàng bên trong đựng 42 kg thóc loại tám thơm.
Về trách nhiệm dân sự: Vợ chồng bà Hồ Thị B và ông Phạm Duy T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu C phải bồi thường.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Trương Đình C không có ý kiến hay khiếu nại về Kết luận định giá tài sản, khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Tại Cáo trạng số 86/CT-VKS ngày 05/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân (viết tắt là VKSND) huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương truy tố Trương Đình C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (viết tắt là BLHS) .
Đại diện VKSND huyện Gia Lộc giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS năm 2015; Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên bố: Bị cáo Trương Đình C phạm tội "Trộm cắp tài sản". Xử phạt bị cáo C từ 08 tháng đến 10 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 11/10/2019. Hình phạt bổ sung: không áp dụng. Trách nhiệm dân sự: không giải quyết. Về án phí: Bị cáo C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện VKS, nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lộc, Điều tra viên, VKSND huyện Gia Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Do anh Phùng Văn Ư không yêu cầu bị cáo phải trả lại 200.000 đồng là số tiền mà anh Ư mua bao thóc mà cho bị cáo số tiền này nên Hội đồng xét xử xác định tư cách tham gia tố tụng của anh Ư là người làm chứng, không đưa anh Ư là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Lời khai của bị cáo Trương Đình C tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 23/9/2019, tại sân nhà anh Nguyễn Ngọc Q ở thôn H, xã M, huyện G, tỉnh Hải Dương, Trương Đình C đã lén lút chiếm đoạt của bà Hồ Thị B và ông Phạm Duy T 01 bao dứa màu vàng bên trong có đựng 42 kg thóc loại tám thơm, có giá trị là 423.000 đồng.
Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự nhưng do cần tiền để tiêu xài nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Tại Bản án số 89/2015/HSST ngày 18/12/2015, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt C 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích). Mặc dù tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 423.000 đồng, dưới mức định lượng của khung hình phạt là 2.000.000 đồng, nhưng bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xoá án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Vì vậy, VKSND huyện Gia Lộc truy tố bị cáo C về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 là đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an trong xã hội, gây tâm lý bất an trong nhân dân.
[4] Về nhân thân: Trong các năm 2015, 2017 bị cáo có 3 lần bị xử phạt hành chính về các hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép pháo, tàng trữ trái phép chất ma túy (đều đã được xóa). Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo C có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp “tái phạm”, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội gây thiệt hại không lớn nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, h khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Hội đồng xét xử sẽ xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tuy nhiên vẫn phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này.
[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập, tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà B, ông T xác định đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản nào khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7] Về xử lý vật chứng: Công an huyện Gia Lộc đã trả lại cho bà Hồ Thị B 01 bao dứa màu vàng bên trong có đựng 42 kg thóc loại tám thơm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 BLTTHS năm 2015, Luật phí và lệ phí năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14.
[9] Quá trình điều tra xác định, chiếc xe máy nhãn hiệu CPI biển kiểm soát 34K4-5090 thuộc sở hữu hợp pháp của anh Nguyễn Quốc T. Anh T không biết việc C sử dụng chiếc xe máy vào việc phạm tội nên không đặt ra xử lý là phù hợp.
Đối với anh Phùng Văn Ư khi mua bao thóc của C không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên không đặt ra để xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS năm 2015; Điều 135, Điều 136 BLTTHS năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Đình C phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Xử phạt bị cáo Trương Đình C 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 11/10/2019. 2. Về án phí: Bị cáo Trương Đình C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án 87/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 87/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về