Bản án 87/2019/HS-PT ngày 04/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 87/2019/HS-PT NGÀY 04/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 104/2019/TLPT-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của các bị cáo, đối với bản án hình sự sơ thẩm số 59/2018/HS-ST ngày 24/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm: 1969; tại tỉnh Thái Nguyên; Nơi cư trú: Tổ 21, phường T3, thành phố T2, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Kim M và bà Nguyễn Thị H1 (cả 2 đều còn sống); có vợ Dương Thị O; có 02 con (con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1994).

Nhân thân:

- Ngày 21/6/1995, bị TAND tỉnh Thái Nguyên xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”.

- Ngày 21/11/1997, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”.

- Ngày 20/12/2001, bị TAND thành phố T2, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 24/5/2005, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Ngày 26/3/2014, bị TAND thị xã S, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 16/6/2018, tạm giam ngày 25/6/2018; có mặt. Bị cáo bị truy tố và xét xử về tội danh mà Bộ luật hình sự quy định phải có người bào chữa cho bị cáo, nhưng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại giai đoạn sơ thẩm bị cáo đều từ chối người bào chữa.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử giải thích về người bào chữa cho bị cáo, sau khi nghe giải thích bị cáo Nguyễn Văn T đồng ý Luật sư Trịnh Gia Q là người bào chữa cho mình theo chỉ định của Tòa án cấp phúc thẩm.

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Luật sư Trịnh Gia Q - Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:  Nguyễn Văn T quen biết một người đàn ông tên là Tuấn (chưa xác định được lý lịch), cư trú tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 15/5/2018, Tuấn điện thoại cho T hỏi mua 05 cây Heroin và 02 lạng ma túy đá, T trả lời để T tìm mua, nếu mua được T sẽ liên lạc lại sau. Sau đó, T đến gặp bạn là A, cư trú tại tổ 13, phường T1, thành phố T2, tỉnh Thái Nguyên và nói với A: “Có người cần mua 05 cây Heroin và 02 lạng ma túy đá”; A trả lời: “A lo được” và bán với giá 48.000.000đ/cây Heroin và 70.000.000đ/lạng ma túy đá. Ngày 22/5/2018, Ađiện thoại báo cho T biết là đã mua được 05 cây Heroin và sẽ bán với giá 240.000.000đ, A không mua được ma túy đá. Sau đó, T điện thoại báo cho Tuấn biết, Tuấn đồng ý mua 05 cây Heroin với giá 240.000.000đ. Ngày 14/6/2018, A và T cất giấu 05 cây Heroin vào thùng giấy hình chữ nhật, đựng trong bao tải và đón xe ô tô khách đi từ tỉnh Thái Nguyên vào tỉnh Đắk Lắk để bán Heroin cho Tuấn. Trên đường đi, mỗi khi xe dừng lại, A lấy Heroin ra sử dụng và cho T cùng sử dụng Heroin. Khi xe khách đến tỉnh Gia Lai, thì A và T xuống xe và đi vào nhà người bạn của A là C, cư trú tại thôn Q1, xã E, huyện Đ, tỉnh Gia Lai và ở lại nhà C qua đêm. Sáng ngày 16/6/2018, A nhờ C thuê xe ô tô biển số 81A-00691 của anh H trú cùng thôn với C, chở T, A và C đến tỉnh Đắk Lắk. Khi đến địa phận xã C1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, thì A, C, T và lái xe là H, đến nhà bạn của A là P, trú tại xã C1, huyện K chơi. Sau đó, T và A hẹn gặp Tuấn tại quán cà phê tại xã C1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để giao dịch bán Heroin. Sau khi bàn bạc xong, A, T và Tuấn lên xe ô tô của Tuấn đến bãi đất trống tại Km 68, thuộc xã C1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để cân khối lượng và kiểm tra chất lượng Heroin.

Trong lúc Tuấn, T và A đang cân khối lượng Heroin thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T. Riêng A và Tuấn bỏ chạy vào lô cà phê và trốn thoát.

Bản kết luận giám định số: 551/GDMT-PC54, ngày 22/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn màu trắng được niêm phong có chữ ký ghi tên: Nguyễn Văn T, Nguyễn CC, Nguyễn Tuấn D1, Nguyễn Tiến D2, gửi giám định là ma túy; loại Heroin; có tổng khối lượng 105,8559gam.

Với nội dung nêu trên tại bản án hình sự sơ thẩm số 59/2018/HS-ST ngày 24-12-2018, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Áp dụng: Điểm b khoản 4 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Văn T tù Chung thân, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam ngày 16/6/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Trong thời hạn quy định của pháp luật, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo không tranh luận về tội danh và khung hình phạt, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức tù có thời hạn để sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử xác định được hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Xuất phát từ động cơ vụ lợi nên ngày 14/6/2018, Nguyễn Văn T và A đã mang 105,8559gam Heroin từ tỉnh Thái Nguyên đến tỉnh Đắk Lắk để bán cho đối tượng tên Tuấn (chưa xác định được nhân thân lai lịch). Đến khoảng 14 giờ ngày 16/6/2018, T, A và Tuấn đến bãi đất trống tại Km68, Quốc lộ 14 thuộc xã C1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để cân khối lượng Heroin và giao dịch mua bán thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T và thu giữ số Heroin nêu trên. Riêng A và đối tượng tên Tuấn bỏ chạy vào lô cà phê và trốn thoát.

Với hành vi nêu trên của Nguyễn Văn T, tại bản án sơ thẩm số 59/2018/HS-ST ngày 24/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn T thì thấy: Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, Nguyễn Văn T đã mua bán ma túy với số lượng rất lớn 105,8559gam Heroin. Hành vi phạm tội của bị cáo không những đã xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền về các chất ma túy của Nhà nước, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội, làm gia tăng nhiều tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực và sự phát triển bình thường của nòi giống dân tộc. Bị cáo phạm tội có khung hình phạt lên đến chung thân, tử hình. Mặt khác, nhân thân rất xấu đã nhiều lần bị kết án về các tội danh “Trộm cắp tài sản”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội với tính chất, mức độ ngày càng nguy hại hơn. Vì vậy, đối với bị cáo, cần xử phạt nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, xử phạt bị cáo mức án tù chung thân là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy

Áp dụng: Điểm b khoản 4 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Văn T tù Chung thân, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam ngày 16/6/2018.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

374
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2019/HS-PT ngày 04/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:87/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về