Bản án 87/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 87/2018/HS-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 31 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TuyPhong xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 86/2018/HSST, ngày 08/10/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 1 0năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn A (tên gọi khác: Tiền), sinh năm 1987, tại tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: thôn Z, xã Z1, huyện Z2, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn B và bà: Mai Thị C; Vợ Lê Thị Kim D, sinh năm 1988 hiện ở thôn Z, xã Z1, huyện Z2, tỉnh Bình Thuận; Con: 02 người, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2007; Tiền án: không

Tiền sự: 01 tiền sự. Ngày 21.7.2018, Nguyễn Văn A bị công an thị trấn Phan Rí Cửa xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Chưa chấp hành nộp phạt.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 03.8.2018, đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Tuy Phong. Có mặt.

- Bị hại: Huỳnh Thị E, sinh năm 1979

Nơi cư trú: Thôn T2, xã T, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

- Người làm chứng: Huỳnh Thúc F, sinh năm 1990

Nơi cư trú: Khu phố U6, thị trấn U, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Văn A đã có một tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản, là ngườinghiện ma túy nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để có tiền mua ma túy để sử dụng. Đến khoảng 10 giờ ngày 30.7.2018 A đi bộ từ khu vực đồi dương thuộc thị trấn U đến khu vực xã T mục đích tìm tài sản để trộm cắp. Khi A đi đến thôn T2, xã T, huyện W thì nhìn thấy có 01 xe mô tô nhãn hiệu DAMSAN biển số 86H5- 4063 của Huỳnh Thị E đang để tại bên hông nhà không có người trông coi. A đi vào bên trong nhà thấy xe mô tô biển số 86H5-4063 có gắn sẵn chìa khóa trên xe nên đề nổ máy xe chạy đi đến khu vực Phòng khám đa khoa U. A dùng lưỡi cưa bằng sắt cắt đuôi sau xe có gắn biển số 86H5-4063 vứt bỏ tại bụi cây ở gần khu vực này. Sau khi sự việc xảy ra, Huỳnh Thị E làm đơn trình báo toàn bộ sự việc cho Công an thị trấn Phan Rí Cửa. Ngày 3.8.2018, Công an thị trấn Phan Rí Cửa phát hiện A đang điều khiển xe mô tô biển số 86H5-4063 tại khu vực cảng cá thị trấn U thuộc khu phố U1, thị trấn U nên A hành bắt giữ A và xe mô tô về trụ sở làm việc. A đã khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên và dẫn Công an thị trấn Phan Rí Cửa đến khu vực phòng khám đa khoa U thu giữ đuôi sau xe có gắn biển số 86H5- 4063.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 84/KL-HĐDG ngày 10.8.2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tuy Phong kết luận:

+ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu DAMSAN biển số 86H5-4063, số máy2FMH00032243, số khung HBUM5H032243 có trị giá: 4.000.000 đồng/chiếc x 40% = 1.600.000 đồng

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 85/CT/VKSTP-HS ngày 08.10.2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A mức án từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứngcứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn A đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng số 85/CT/VKSTP-HS ngày08.10.2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong đã truy tố. Bị cáo khẳng định những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện, đúng sự thật, bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oancho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận đây là vụ án Trộm cắp tài sản xảy ra vào khoảng hơn 10 giờ ngày 30.7.2018 tại thôn T2, xã T, huyện W. Do Nguyễn Văn A có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản đã lén lút lấy cắp 01 xe mô tô hiệu DAMSAN biển số 86H5- 4063 trị giá 1.600.000 đồng của Huỳnh Thị E để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân thì bị phát hiện bắt giữ.

Vì vậy, Cáo trạng số 85/CT/VKSTP-HS ngày 08.10.2018của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận biết được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vì bản tính tham lam, muốn có tiền tiêu xài một cách nhanh chóng, bị cáo đã lén lút lấy cắp 01 xe mô tô hiệu DAMSAN biển số 86H5- 4063 trị giá 1.600.000 đồng của Huỳnh Thị E để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Ngày 21.7.2018, bị cáo bị công an thị trấn Phan Rí Cửa xử phạt 1.500.000đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” chưa chấp hành nộp phạt xong thì đến ngày 30.7.2018 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp, hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi trộm cắp 01 xe mô tô trị giá 1.600.000 đồng của bị cáo đã xâm hại tới quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần phải tuyên phạt bị cáo bằng một mức án nghiêm khắc đủ để răn đe, giáo dục và tuyên truyền phòng ngừa loại tội trộm cắp trên địa bàn.

Tuy nhiên, bị cáo không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường B ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại nên đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, h và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo xét thấy rằng cầnthiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong:

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của các bị cáo đã gây ra.

[5] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm bồi thường dân sự: Cơ quan điều tra đã trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu DAMSAN biển số 86H5- 4063 cho chủ sở hữu theo quy định pháp luật, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định củapháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 173; điểm i,h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A mức án 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03.8.2018.

[2] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14,ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

[3] Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:87/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về