Bản án 87/2018/HS-ST ngày 09/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 87/2018/HS-ST NGÀY 09/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 84/2018/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2018/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vàng Thị C. Tên gọi khác: Không; sinh năm 1982. Tại: Điện Biên.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Bản N, xã H, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm nương; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vàng Sái G (đã chết) và con bà: Hờ Thị C; chung sống như vợ chồng với Sùng A C và có 02 người con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 28/11/2017. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Quang Khai - Luật sư công tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên (Có mặt)

- Người phiên dịch cho bị cáo: Anh Chá A S, sinh năm 1993. Địa chỉ: Bản H, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 28/11/2017, Vàng Thị C mang theo 200.000 đồng đi bộ từ nhà ra đầu Bản N, xã H, huyện Đ tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, C gặp một người phụ nữ dân tộc Mông (C không biết tên và địa chỉ). Qua trao đổi, C đã đưa 200.000 đồng và mua được của người phụ nữ 05 gói ma túy trong đó gồm: 03 gói được gói bằng nilon màu xanh (trong đó có 01 gói mở bên trong có 01 viên hồng phiến; 01 gói mở bên trong có 02 viên hồng phiến; 01 gói mở bên trong có heroine); 01 gói heroine bên ngoài được gói bằng nilon màu trắng; 01 gói heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng. Sau khi mua được ma túy, C đã cho toàn bộ số ma túy đó vào túi vải tự tạo màu đen của C rồi đi về nhà. Hồi 11 giờ cùng ngày, khi đến cuối Bản N, xã H, huyện Đ thì C bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã Hẹ Muông bắt quả tang thu giữ toàn bộ 05 gói ma túy.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 28/11/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên và kết luận giám định số: 154/GĐ PC54 ngày 15/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã xác định số vật chứng thu giữ của Vàng Thị C gồm: Chất bột màu trắng có khối lượng 0,22 gam là chất ma túy loại heroine; Viên nén màu hồng có khối lượng 0,29 gam là chất ma túy loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 30/CT -VKS ngày 15/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Vàng Thị C về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 3 Điều 7; Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa XIV. Xử phạt bị cáo Vàng Thị C từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015. Tịch thu tiêu hủy 0,22 gam heroine (Đã trích 0,07 gam gửi giám định không hoàn lại) và 0,29 gam Methamphetamine đã trích 0,09 gam gửi giám định không hoàn lại). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Luật sư Nguyễn Quang Khai bào chữa cho bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên về việc truy tố bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xem xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, không bổ sung gì vào lời bào chữa của người bào chữa. Hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên.

Kiểm sát viên đối đáp: Đối với đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo của người bào chữa, Kiểm sát viên cũng đã đề nghị HĐXX. Về áp dụng hình phạt Kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét về khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ bởi bị cáo tàng trữ 02 chất ma túy có tổng khối lượng là 0,51 gam nên mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp. Ngoài nội dung trên không ai tranh luận gì thêm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo đã xuất trình những chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo, người bào chữa không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 28/11/2017, Bị cáo Vàng Thị C đã có hành vi mua 0,22 gam heroine và 0,29 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân, khi đang trên đường về nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã Hẹ Muông phát hiện và thu giữ toàn bộ vật chứng. Với khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194/BLHS năm 1999 và khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015.

[2.1] Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện trước 0 giờ ngày 01 tháng 01 năm 2018 nhưng tại thời điểm xét xử, Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có hiệu lực pháp luật. Theo quy đinh tai Khoan 1 Điêu 194/BLHS năm 1999 có khung hình phạt từ 02 năm tù đến 07 năm tù. Nhưng với khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ theo quy định tại Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 có khung hình phạt từ 01 năm tù đến 05 năm tù. So với Bộ luật hình sự năm 1999 thì quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 có lợi cho bị cáo. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015 và Điểm h Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

[2.2] Bị cáo tàng trữ 02 chất ma túy gồm 0,22 gam heroine và 0,29 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì 02 chất ma túy bị cáo tàng trữ đều được quy định trong cùng một điểm, tổng khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là 0,51 gam, tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại cùng điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015. Vì vậy hành vi tàng trữ hai chất ma túy có tổng khối lượng 0,51 gam của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội  "Tàng  trữ trái  phép  chất  ma tuý" theo quy định tại điểm i  khoản 1 Điều249/BLHS năm 2015. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đơn giản, chỉ do nghiện ma túy nên đã đi mua ma túy để sử dụng cho bản thân mà không có mục đích nào khác. Tuy nhiên, hành vi đó của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, làm ảnh hưởng đến nền trật tự trị an, an toàn trong xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015.

[5] Sau khi xem xét về hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy, cần phải áp dụng một hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cai nghiện đồng thời để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS năm 2015, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xong xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập chính từ làm nương ngoài ra không có nguồn thu nào khác nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Bị cáo đã khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua của một người phụ nữ dân tộc Mông, bị cáo không biết tên và địa chỉ. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không có cơ sở để điều tra làm rõ được. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng:Gồm 0,22 gam heroine (Đã trích 0,07 gam gửi giám định không hoàn lại) và 0,29 gam Methamphetamine (Đã trích 0,09 gam gửi giám định không hoàn lại) cần bị tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.

[9] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/201 6 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 7; Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa XIV.

1. Tuyên bố: Bị cáo Vàng Thị C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Xử phạt bị cáo Vàng Thị C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 28/11/2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ 0,22 gam heroine (Đã trích 0,07 gam gửi giám định không hoàn lại) và 0,29 gam Methamphetamine (Đã trích 0,09 gam gửi giám định không hoàn lại)

Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện  Điện  Biên  và  Chi  cục  Thi  hành  án  dân  sự  huyện  Điện  Biên  ngày 02/02/2018.

4. Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (09/3/2018

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2018/HS-ST ngày 09/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:87/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về