Bản án 87/2017/HSST ngày 20/09/2017 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 87/2017/HSST NGÀY 20/09/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 20 tháng 9 năm 2017, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/HSST ngày 06/9/2017 đối với bị cáo:

Lù Trí T. Tên gọi khác: Không; sinh năm 1990 tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT: Bản A, phường B, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Tạm trú: Bản C, xã D, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không.

Con ông: Lù Văn E, sinh năm 1968; Con bà: Cà Thị F, sinh năm 1968. Bị cáo có vợ là Lường Thị Bích G, sinh năm 1993; Bị cáo có 01 con sinh năm 2015.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ 03 ngày (từ ngày 22/6/2017 đến ngày 25/6/2017) được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo được tại ngoại tại nơi cư trú cho đến nay, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 22/6/2017 tổ công tác Công an huyện Mai Sơn đang làm nhiệm vụ tại bản C, xã D, huyện Mai Sơn phát hiện bắt quả tang Lù Trí T đang có hành vi bán số lô, số đề trái pháp luật cho Hà Văn Cường và Hà Văn Quân, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, Cường, Quân.

Kết quả điều tra xác định:

Gia đình Lù Trí T có mở quầy bán nước giải khát và hàng tạp hóa tại bản C, xã D, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Để có thêm thu nhập, khoảng cuối tháng 10 năm 2016 Lù Trí T ký hợp đồng đại lý cấp 2 bán vé xổ số, vé lô tô với Trần Ngọc Cương, sinh năm 1972, trú tại tiểu khu 5, thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn (chủ đại lý bán vé số cấp 1 của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Sơn La. Theo hợp đồng thì đại lý cấp 2 sẽ được hưởng 8% tiền hoa hồng của doanh số bán ra). Ngày 06/6/2017 khi T đang ngồi bán vé xổ số, lô tô và nước giải khát thì có một người phụ nữ đến tự giới thiệu tên là Hằng (T không biết họ và địa chỉ cụ thể) nhà ở thành phố Sơn La đặt vấn đề với T ghi bán số lô, số đề trái pháp luật và chuyển bảng lô, đề cho Hằng, T đồng ý, Hằng thỏa thuận trả % cho T là 1.000VNĐ/1điểm lô, với số đề và lô xiên là 10% tổng số tiền bán được trong ngày.

Sau khi thỏa thuận với Hằng, đến ngày 10/6/2017 T bắt đầu thực hiện ghi bán số lô, số đề trái phép với hình thức số lô tỷ lệ được thua 23/80 nghĩa là nếu người mua mua 01 điểm lô, với 02 số tự nhiên bất kỳ từ 00 đến 99 với giá 23.000VNĐ/1 điểm, nếu trùng với 02 số cuối của 27 dãy số từ giải đặc biệt đến giải 7 kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng trong ngày thì người mua sẽ được trả 80.000VNĐ, nếu không trúng thì mất số tiền mua. Số đề tỷ lệ được thua 1/70, nghĩa là nếu người mua mua 01 số đề với 02 số tự nhiên bất kỳ từ 00 đến 99, nếu 02 số đó trùng với 02 số cuối của giải đặc biệt kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng trong ngày thì người mua thì sẽ được trả gấp 70 lần số tiền mua, nếu không trúng thì người mua mất số tiền mua. Đối với lô xiên 3 khách chọn 03 cặp số tự nhiên bất kỳ nếu 03 cặp số trùng với 02 số cuối của 27 dãy số từ giải đặc biệt đến giải 7 kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng trong ngày thì người mua sẽ được trả gấp 40 lần tiền khách mua. Từ ngày 10.6.2017 đến ngày 21.6.2017 T đã bán số lô, số đề trái pháp luật cho một số người không quen biết và được hưởng lợi tổng số tiền là 2.200.000VNĐ.

Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 22/6/2017 khi T đang ngồi bán vé xổ số, lô tô thì có Hà Văn Quân, sinh năm 1986 và Hà Văn Cường, sinh năm 1989 đến hỏi mua số lô trái pháp luật. Cường hỏi mua số lô 43 (30 điểm), 89 (30 điểm), 80 (15 điểm), tổng cộng Cường mua 75 điểm x 23.000VNĐ/1điểm = 1.725.000VNĐ, xiên ba 00, 34, 72 = 20.000VNĐ. T đồng ý, lấy bút ghi các số lô và số điểm Cường mua vào một góc tờ giấy trắng A4 rồi xé đưa mảnh giấy có ghi các số lô cho Cường rồi tính tổng số tiền Cường mua các số lô trái phép là 1.745.000VNĐ. Cường mua 01 cốc nước mía tại quán của T với số tiền là 5.000VNĐ. Cường đưa T 1.800.000VNĐ, T cầm tiền cất vào ví và lấy 50.000VNĐ trả lại Cường, sau đó T cất ví vào trong túi quần bên trái đang mặc. Tiếp theo Quân hỏi mua số lô 35(30 điểm), 47(30 điểm), 24(30 điểm), 52(30 điểm) x 23.000VNĐ/1điểm, T dùng bút ghi các số lô Quân mua vào góc tờ giấy trắng A4 rồi xé đưa cho Quân, sau đó Quân mua tiếp số lô 72 (20 điểm), 15 (10 điểm) x 23.000VNĐ/1điểm, T dùng bút ghi các số 72 (20 điểm); 15 (10 điểm) vào mặt sau mảnh giấy vừa xé và đưa cho Quân (tổng cộng Quân mua 150 điểm lô = 3.450.000VNĐ). Quân đưa T 3.500.000VNĐ, T cầm tiền cất vào ví và lấy 50.000VNĐ đưa trả cho Quân, sau đó T cất ví vào túi quần trước bên trái đang mặc, cùng lúc đó thì bị tổ công tác Công an huyện Mai Sơn phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Vật chứng thu giữ gồm:

Đối với Lù Trí T: 01 bút bi vỏ màu trắng nhãn hiệu TL, mực màu xanh; 01 tờ giấy A4 một mặt có ghi nhiều số tự nhiên, bên trên có ghi ngày 22/6/2017 thu giữ trên mặt bàn bán xổ số, lô tô; 04 tờ giấy A4, một mặt có in kết quả xổ số truyền thống, phía cuối mỗi tờ giấy A4 bị xé nham nhở phát hiện thu giữ tại mặt bàn bán xổ số, lô tô; 01 ví giả da màu đen nhãn hiệu D8G đã qua sử dụng bên trong có 9.750.000VNĐ (trong đó có 5.195.000VNĐ là tiền ghi bán số lô trái pháp luật cho Quân và Cường); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J7, vỏ màu trắng đã qua sử dụng thu giữ tại mặt bàn vị trí T ngồi ghi, bán số lô trái phép; 01 bàn nhựa màu xanh, 01 ghế nhựa màu xanh.

Đối với Hà Văn Quân: 200.000VNĐ thu giữ tại túi quần phía sau bên trái; 01 cáp ghi lô bàng mảnh giấy trắng nhỏ được xé từ tờ xổ số kết quả truyền thống có ghi các số tự nhiên: 24, 35, 47, 52 (30đ); mặt sau cáp ghi các số 72 (20), 15 (10) thu giữ tại túi quần bên trước bên trái đang mặc.

Đối với Hà Văn Cường: 01 cáp ghi số lô gồm các số 80, 43, 89, 00, 34, 72 thu giữ tại tay phải; 50.000VNĐ thu giữ tại tay phải.

Tại bản cáo trạng số: 70/KSĐT-TA ngày 06/9/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn truy tố bị cáo Lù Trí T về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo Cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lù Trí T phạm tội Đánh bạc.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46; khoản 2, 3 Điều 30; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lù Trí T từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000VNĐ.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi màu trắng xanh, nhãn hiệu TL trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành; 01 tờ giấy A4 một mặt có nhiều chữ số tự nhiên trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành; 04 tờ giấy A4 một mặt có in kết quả xổ số truyền thống trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành; 01 bàn nhựa màu xanh; 01 ghế nhựa màu xanh thu giữ của Lù Trí T; 01 cáp ghi lô đề trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành thu giữ của Hà Văn Quân; 01 cáp ghi lô đề trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành thu giữ của Hà Văn Cường.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 5.195.000VNĐ, truy thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 2.200.000VNĐ của Lù Trí T.

- Tạm giữ để đảm bảo cho công tác thi hành án số tiền 4.555.000VNĐ của Lù Trí T.

- Trả lại cho bị cáo Lù Trí T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu trắng, 01 ví da màu đen cũ.

- Chấp nhận việc cơ quan cảnh sát điều tra đã trả cho anh Hà Văn Quân số tiền 200.000VNĐ, trả cho anh Hà Văn Cường số tiền 50.000VNĐ.

Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 BLTTHS; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lù Trí T đã trình bày thống nhất với nội dung bản cáo trạng số 70/KSĐT-TA ngày 06/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn và khai nhận hành vi phạm tội.

Trong quá trình điều tra những người làm chứng trình bày: Ngày 22/6/2017 Hà Văn Quân và Hà Văn Cường đã cùng mua số lô, số đề trái pháp luật với Lù Văn T và bị tổ công tác công an huyện Mai Sơn bắt quả tang. Hà Văn Quân đã mua 150 điểm lô với số tiền 3.450.000VNĐ. Hà Văn Cường đã mua 75 điểm lô và 01 xiên ba với số tiền 1.745.000VNĐ.

Trong lời nói sau cùng bị cáo Lù Trí T trình bày: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn, hối hận về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở lại với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Mai Sơn, Kiểm sát viên, thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tình tiết định tội, định khung hình phạt:

Tại phiên tòa bị cáo Lù Trí T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra, bị cáo vì hám lời nên đã nhận ghi bán số lô, đề trái phép. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi, bị cáo không khai gì thêm so với lời khai của mình tại Cơ quan cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lù Trí T do Tổ công tác Công an huyện Mai Sơn lập hồi 16 giờ 00 phút, ngày 22/6/2017, biên bản thu giữ vật chứng, lời khai của những người làm chứng trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ của cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Vào ngày 22/6/2017 tại gia đình bị cáo Lù Trí T đã thực hiện hành vi bán số lô, đề trái phép cho Hà Văn Quân và Hà Văn Cường với tổng số tiền 5.195.000VNĐ, ngoài ra bị cáo còn khai nhận từ ngày 10/6/2017 đến ngày 21/6/2017 bị cáo đã bán số lô, số đề trái pháp luật cho một số người không quen biết và được hưởng lợi số tiền là 2.200.000VNĐ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự thì: “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại điều 249 của bộ luật này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.” Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo T đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, Tuy nhiên, vì hám lời bị cáo đã cố ý thực hiện. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự.

Như vậy, cáo trạng số 70/KSĐT-TA ngày 06/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn truy tố bị cáo Lù Trí T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự cũng như quan điểm luận tội kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

- Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

- Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã có thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại các điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Từ những đánh giá nêu trên HĐXX xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo cũng có tác dụng cải tạo giáo dục đối với bị cáo, đồng thời răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 248 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đến ba mươi triệu đồng, Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo và vợ hiện đang cư trú tại bản Lọng Nghịu, xã Chiềng Chung, huyện Mai Sơn. Thu nhập chỉ đủ để duy trì mức sống tối thiểu của gia đình. Bản thân bị cáo không có tài sản riêng có giá trị ngoài các vật dụng thiết yếu trong gia đình. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra đã thu giữ của bị cáo tài sản là tiền nên cần áp dụng khoản 2, 3 Điều 30 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung đối với bị cáo ở mức phù hợp.

- Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01 bút bi màu trắng xanh, nhãn hiệu TL trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành; 01 tờ giấy A4 một mặt có nhiều chữ số tự nhiên trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành; 04 tờ giấy A4 một mặt có in kết quả xổ số truyền thống trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành; 01 bàn nhựa màu xanh; 01 ghế nhựa màu xanh thu giữ của Lù Trí T; 01 cáp ghi lô đề trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành thu giữ của Hà Văn Quân; 01 cáp ghi lô đề trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành thu giữ của Hà Văn Cường. Xét thấy đây là những vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 5.195.000VNĐ là số tiền bị cáo bán lô, đề bất hợp pháp ngày 22/6/2017 nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước; đối với số tiền 2.200.000VNĐ là số tiền bị cáo thu lời bất chính từ việc bán lô, đề từ ngày 10/6/2017 đến ngày 21/6/2017 đã chi tiêu trước khi bị bắt nên cần truy thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với số tiền 4.555.000VNĐ (trong tổng số tiền 9.750.000VNĐ) thu giữ của Lù Trí T. Xét thấy đây là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần tạm giữ để đảm bảo cho công tác thi hành án.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu trắng, 01 ví da màu đen cũ. Xét thấy là tài sản hợp pháp của bị cáo, không dùng vào việc phạm tội nên cần trao trả lại cho bị cáo Lù Trí T.

Đối với số tiền 200.000VNĐ của Hà Văn Quân và 50.000VNĐ của Hà Văn Cường. Xét thấy đây là tài sản hợp pháp của anh Quân, anh Cường, không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo Lù Trí T, cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại số tài sản trên cho anh Quân và anh Cường là đúng quy định của pháp luật. Cần chấp nhận.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ là phù hợp với khoản 1, 2 Điều 99 BLTTHS, Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về các vấn đề khác:

Đối với Hà Văn Quân và Hà Văn Cường đã mua số lô, số đề trái phép của bị cáo Lù Trí T, số tiền mỗi người đánh bạc chưa đến 5.000.000VNĐ, bản thân chưa có tiền án về tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Do vậy, không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Sơn La đã xử phạt hành chính đối với Quân và Cường bằng hình thức phạt tiền. Cần chấp nhận.

Đối với những người mua số lô, số đề trái phép của bị cáo T từ ngày 10/6/2017 đến ngày 21/6/2017 do bị cáo không biết tên, địa chỉ nên cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La không có cơ sở để điều tra, xác minh mở rộng vụ án.

Đối với người phụ nữ giới thiệu tên Hằng, T khai không biết địa chỉ cụ thể của Hằng do đó cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xác minh. Cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lù Trí T phạm tội: "Đánh bạc".

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46; khoản 2, 3 Điều 30; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lù Trí T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 20/9/2017). Giao bị cáo Lù Trí T cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú là UBND xã D, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng).

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi màu trắng xanh, nhãn hiệu TL trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành; 01 tờ giấy A4 một mặt có nhiều chữ số tự nhiên trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành; 04 tờ giấy A4 một mặt có in kết quả xổ số truyền thống trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành; 01 bàn nhựa màu xanh; 01 ghế nhựa màu xanh thu giữ của Lù Trí T; 01 cáp ghi lô đề trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành thu giữ của Hà Văn Quân; 01 cáp ghi lô đề trong 01 phong bì do Bưu điện Việt Nam phát hành thu giữ của Hà Văn Cường.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 5.195.000VNĐ do bị cáo phạm tội mà có.

- Truy thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 2.200.000VNĐ của Lù Trí T.

- Tạm giữ để đảm bảo cho công tác thi hành án số tiền 4.555.000VNĐ của Lù Trí T.

- Trả lại cho bị cáo Lù Trí T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu trắng, 01 ví da màu đen cũ.

Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Báo cho bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20/9/2017)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2017/HSST ngày 20/09/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:87/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về