Bản án 869/2018/HNGĐ-ST ngày 16/08/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 869/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 16 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1411/2017/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2017 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 268/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lường Thị H, sinh năm 1980

Thường trú: xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.

Tạm trú: Đường S, khu phố H, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn T, sinh năm 1975

Thường trú: Đường H, khóm H, thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang.

Tạm trú: Đường S, khu phố H, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Nguyên đơn bà Lường Thị H trình bày:

Bà Lường Thị H và ông Huỳnh Văn T tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân mdân thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang vào ngày 03/9/2004. Sau khi kết hôn, bà H và ông T sống tự lập tại địa chỉ Đường S, khu phố H, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Cuộc sống chung của vợ chồng không hạnh phúc, mâu thuẫn kéo dài vì ông T ham chơi, thiếu trách nhiệm với gia đình, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Hai bên đã sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay. Nay bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ gia đình nên yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà H và ông T có 01 con chung tên Huỳnh Vĩ K, sinh ngày 07/7/2007. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

2. Bị đơn ông Huỳnh Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng giải quyết vụ án nhưng vắng mặt không rõ lý do.

3. Tại phiên tòa:

Bà Lường Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Về quan hệ hôn nhân: Bà H kiên quyết yêu cầu được ly hôn với ông T vì tình cảm vợ chồng đã không còn và vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ năm 2013 đến nay; Về con chung: Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Vĩ K, sinh ngày 07/7/2007, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Ông Huỳnh Văn T đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do.

4. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

4.1 Về tố tụng: Tòa án đã tiến hành thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa, quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, đồng thời, quyền và nghĩa vụ của đương sự được tôn trọng và bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

4.2 Về nội dung: Đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cùng lời khai của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng:

1.1 Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Lường Thị H yêu cầu được ly hôn với ông Huỳnh Văn T. Theo Kết quả xác minh của Công an phường Linh Trung, quận Thủ Đức thì bị đơn ông T có đăng ký tạm trú tại Đường S, khu phố H, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 01/01/2018, không còn cư ngụ tại địa chỉ trên, đi đâu không rõ. Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 5, 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì quan hệ tranh chấp là ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

1.2 Bị đơn ông T đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T.

2. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân:

Bà Lường Thị H và ông Huỳnh Văn T tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 112, quyển số 01, ngày 03 tháng 9 năm 2004. Do đó, căn cứ quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông T là hôn nhân hợp pháp.

Ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà H nhưng ông T vắng mặt không rõ lý do cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Như vậy, ông T đã từ bỏ các quyền được pháp luật quy định. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Xét yêu cầu của bà Lường Thị H, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bà H cho rằng mâu thuẫn vợ chồng bắt đầu phát sinh từ năm 2007 và xảy ra trong một thời gian dài vì ông T ham chơi, thiếu trách nhiệm với gia đình, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Hai bên đã ly thân từ năm 2013 cho đến nay.

Ông T đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng ông T vẫn vắng mặt không rõ lý do, điều này thể hiện ông T không có thiện chí hàn gắn quan hệ vợ chồng, để mặc quan hệ hôn nhân, không quan tâm đến ý kiến của bà H.

Căn cứ Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà H và ông T phát sinh do vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẻ với nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung. Hơn nữa, không bên nào có thiện chí hàn gắn quan hệ vợ chồng và vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ năm 2013 cho đến nay. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông T đã thật sự trầm trọng, khả năng hàn gắn đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H.

- Về con chung:

Theo Văn bản số 391/LĐTB ngày 16/4/2018 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Thủ Đức thì bà H hiện đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Vĩ K. Đồng thời, con chung Huỳnh Vĩ K có nguyện vọng muốn ở với mẹ là bà H. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H, giao con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự xác định không có.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Do đây là vụ án hôn nhân gia đình về ly hôn nên bà H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 186, Khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 9, 19, 51, 53, 54, 56, 57, 58, 59, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Căn cứ Điều 5, 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lường Thị H.

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Lường Thị H và ông Huỳnh Văn T.

1.2 Về con chung: Giao con chung tên Huỳnh Vĩ K, sinh ngày 07/7/2007 cho bà Lường Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Lường Thị H không yêu cầu ông Huỳnh Văn T cấp dưỡng nuôi con chung

Không bên nào được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì quyền lợi mọi mặt của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

1.3 Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự xác định không có.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lường Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, nhưng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0038028 ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Lường Thị H đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Lường Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Huỳnh Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 869/2018/HNGĐ-ST ngày 16/08/2018 về ly hôn

Số hiệu:869/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về