Bản án 865/2017/HNGĐ-PT ngày 20/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 865/2017/HNGĐ-PT NGÀY 20/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong các ngày từ ngày 13 tháng 9 năm 2017 đến ngày 20 tháng 9 năm2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 64/2017/TLPT-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2017 về tranh chấp ly hôn.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 631/2017/HNGĐ-ST ngày 31 tháng 5 năm2017 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 731/2017/QĐ-PT ngày25 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Vương Kiến Q; cư trú tại: Đường M, Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Tô Thị Thùy T; cư trú tại: Đường Q, Phường R, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Bị đơn – Bà Tô Thị Thùy T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn ly hôn ngày 19/12/2016 và lời khai của nguyên đơn là ông Vương Kiến Q thì: Ông và bà Tô Thị Thùy T đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện O, thành phố Hà Nội, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 18, quyển số 01/2008, ngày 17/4/2008. Ông và bà Tô Thị Thùy T chung sống hạnh phúc cho đến tháng 10/2011, bà T sinh con, hoàn cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn, vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn do quan điểm sống ngày càng khác biệt, bà T không có sự tôn trọng bố mẹ Ông và các thành viên trong gia đình Ông. Ông và bà Tô Thị Thùy T đã ly thân từ tháng 11/2014 đến nay. Do tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên Ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho Ông được ly hôn với bà Tô Thị Thùy T.

Về con chung: Ông và bà Tô Thị Thùy T có một con chung là trẻ T, sinh ngày 23/10/2011. Ông yêu cầu trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu bà Tô Thị Thùy T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giảiquyết.

Theo lời khai của bị đơn là bà Tô Thị Thùy T thì: Bà thống nhất với lờitrình bày của ông Vương Kiến Q về việc đăng ký kết hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung. Bà nhận thấy mâu thuẫn gia đình không nghiêm trọng, tình cảm vợ chồng vẫn còn. Hơn nữa, vì con chung là cháu T còn nhỏ, cần có một gia đình có ba, có mẹ, nên Bà không đồng ý ly hôn với ông Vương Kiến Q.

Về con chung: Nếu Tòa án vẫn xử ly hôn, thì bà yêu cầu trực tiếp nuôi con chung và yêu cầu ông Vương Kiến Q cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng10.000.000 (mười triệu) đồng.

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 631/2017/HNGĐ-ST ngày 31 tháng 5 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình quyết định:

 “1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – ông Vương Kiến Q:

a. Về hôn nhân: Ông Vương Kiến Q được ly hôn với bà Tô Thị Thùy T.

b. Về con chung: Giao con chung tên T, sinh ngày 23/10/2011 cho bà Tô Thị Thùy T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Hàng tháng ông Vương Kiến Q có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung 2.500.000đ (hai triệu năm trăm ngàn đồng) cho đến khi con chung thành niên, bắt đầu thi hành từ tháng 5/2017 tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Khi có lý do chính đáng mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ, hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại Khoản 5, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

c. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

2. Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) do ông Vương Kiến Q chịu, được khấu trừ vào 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí ông Vương Kiến Q đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0011945 ngày 30/12/2016 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, ông Vương Kiến Q còn phải nộp thêm 100.000đ (một trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Ông Vương Kiến Q phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con định kỳ.

3. Trường hợp ông Vương Kiến Q chậm trả tiền cấp dưỡng thì ông Vương Kiến Q phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá lãi suất được quy định tại Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.”

Ngày 31/5/2017, bị đơn – bà Tô Thị Thùy T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo: Mâu thuẫn của Bà và ông Vương Kiến Q chưa đến mức ly hôn, do ông Vương Kiến Q chịu áp lực của gia đình nên mới yêu cầu ly hôn. Bà không đồng ý ly hôn với ông Vương Kiến Q.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn – bà Tô Thị Thùy T trình bày:

Giữa Bà và ông Vương Kiến Q có mâu thuẫn nhưng chưa trầm trọng, đến nay vẫn còn yêu nhau, mâu thuẫn trong gia đình Bà chỉ xuất phát trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu, từ quan điểm trọng nam khinh nữ của gia đình ông Vương Kiến Q, thể hiện từ khi sinh con là nữ, ba mẹ chồng của Bà đã không vào thăm. Do áp lực gia đình nên ông Vương Kiến Q mới yêu cầu ly hôn. Bà cho rằng con chung là T còn nhỏ, mới vào lớp 1, đang học chương trình song ngữ Quốc tế, tuy Bà có điều kiện nhưng do mắt cháu kém bẩm sinh, đang trong quá trình điều trị, nên cần có sự chăm sóc của cả cha và mẹ.

Nguyên đơn – ông Vương Kiến Q trình bày:

Giữa Ông và bà Tô Thị Thùy T đã không còn tình cảm yêu thương nhau. Bà T có mâu thuẫn, bất đồng với mẹ Ông. Cha mẹ Ông bán nhà vào thành phố lập nghiệp nên có tư tưởng mở, không phải tư tưởng phong kiến như lời trình bày của bà T. Ông không đồng ý với yêu cầu tiếp tục chung sống vì con của bà T do không có tình cảm, nên đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên phát biểu:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thời hạn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Tô Thị Thùy T còn trong thời hạn luật định.

Về nội dung: Mâu thuẫn giữa ông Q và bà T chưa đến mức trầm trọng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T đã nhận ra những thiếu sót mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng, với gia đình bên chồng và đề nghị có cơ hội để hàn gắn lại tình cảm gia đình, để con còn có cả cha và mẹ thuận tiện trong việc chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục con. Do mâu thuẫn vợ chồng giữa ông Q và bà T chưa đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng còn có khả năng hàn gắn nên đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của bà Tô Thị Thùy T, không chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn bà T của ông Q. Do chấp nhận đơn kháng cáo của bà T, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của ông Q nên không xem xét giải quyết việc nuôi con, cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 18, quyển số 01/2008, ngày 17/4/2008 do Ủy ban nhân dân xã C, huyện O, thành phố Hà Nội cấp thì quan hệ hôn nhân giữa ông Vương Kiến Q và bà Tô Thị Thùy T là hợp pháp. Ngày 19/12/2016, ông Q khởi kiện yêu cầu ly hôn bà T, bà T cư trú tại Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh nên Tòa án nhân dân quận Tân Bình thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1, Điều 28; Điểm a, Khoản 1, Điều 35; Điểm a, Khoản 1, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ngày 31/5/2017, bà T kháng cáo, nên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 38 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa ông Q và bà T là hợp pháp. Trong thời kỳ hôn nhân, giữa ông Q và bà T có phát sinh mâu thuẫn, nhưng chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn giữa mẹ chồng và nàng dâu. Tính chất mâu thuẫn chưa đếnmức trầm trọng, không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng, nên cần tạo điều kiện cho hai bên có thời gian để giải quyết mâu thuẫn, khắc phục tình trạng hôn nhân, cùng nhau nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con phát triển lành mạnh, xây dựng gia đình hạnh phúc như đề nghị của Kiểm sát viên.

 [3] Do đó, chấp nhận kháng cáo của bà Tô Thị Thùy T, sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Vương Kiến Q.

 [4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 5, Khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì nguyên đơn – ông Vương Kiến Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

 [5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào Khoản 1, Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 2, Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm nên người kháng cáo – bà Tô Thị Thùy T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điểm b, Khoản 1, Điều 38; Điều 147; Điều 148; Khoản 1, Điều 300 và Khoản 1, Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 19; Khoản 1, Điều 56; Điều 59; Điều 81; Khoản 1, Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Khoản 5, Khoản 6 Điều 27; Khoản 2, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Sửa Bản án sơ thẩm:

1.1. Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Vương Kiến Q, yêu cầu ly hôn với bà Tô Thị Thùy T.

1.2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Vương Kiến Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0011945 ngày 30/12/2016 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Vương Kiến Q còn phải nộp thêm 100.000đ (một trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Tô Thị Thùy T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho bà Tô Thị Thùy T số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0006362 ngày 12/6/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 865/2017/HNGĐ-PT ngày 20/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:865/2017/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về