Bản án 86/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 86/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân (TAND) thành phố (TP.) Chí Linh, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2021/TLST- HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2021/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 9 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn H, sinh năm 1978 tại: P, C, Hải Dương; tên gọi khác: Không; nơi ĐKHKTT và nơi ở: Khu dân cư (KDC) số 11, phường P, TP. C, tỉnh Hải Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; con ông Vũ Văn T và bà Hà Thị D (Đều đã chết); tiền sự: Không; tiền án: Có 02 tiền án: Tại Bản án hình sự số 81/2002/HS-ST ngày 26/7/2002, TAND tỉnh Hải Dương xử phạt H 60 tháng tù về tội "Cướp tài sản" và 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản chiếm đoạt là 2.419.000 đồng). Tổng hợp hình phạt của 02 tội buộc H phải chấp hành 06 năm 03 tháng tù và phải nộp tiền thu lời bất chính 450.000 đồng và 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; H chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/11/2007, đã thi hành xong số tiền thu lời bất chính và án phí hình sự sơ thẩm; tại Bản án hình sự số 16/2010/HS-ST ngày 16/4/2010, TAND thị xã Chí Linh (nay là TP. Chí Linh) xử phạt H 07 năm 06 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" và 02 năm 06 tháng tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội H phải chịu 10 năm tù và phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; H chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/11/2018, thi hành xong án phí hình sự ngày 14/3/2011; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 01/7/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương - Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo H: Ông Nguyễn Trọng P - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hải Dương - Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại:

1. Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1971 và chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1979. Đều trú tại: Thôn T, xã Lê L, TP. C, tỉnh Hải Dương- Vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1976 và chị Lê Thị M, sinh năm 1978. Đều trú tại: Thôn A, xã L, TP. C, tỉnh Hải Dương - Vắng mặt.

3. Xí nghiệp lắp máy P thuộc Công ty Cổ phần L. Trụ sở của Xí nghiệp: KDC số 10, phường P, TP. C, tỉnh Hải Dương.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phương Đình N - Tổng giám đốc Công ty.

Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1980; địa chỉ:

Khu dân cư số 13, phường P, TP. C, tỉnh Hải Dương -Vắng mặt.

* Người có quyền lợi liên quan: Chị Vũ Thị N; sinh năm 1971; địa chỉ: KDC số 11, phường P, TP. C, tỉnh Hải Dương- Vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

* Người làm chứng

1. Anh Hoàng Văn L, sinh năm 1971; trú tại: Thôn A, xã L, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

2. Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1974; trú tại: Thôn X, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương.

Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 10 phút ngày 30/4/2021, Vũ Văn H (có tiền án về tội chiếm đoạt) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe NOUVO LX, màu nâu- vàng- bạc, biển số 30H8- 8678 (xe mô tô của H) đi từ nhà đến khu vực xã L, TP. C mục đích tìm nhà dân nào để tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi đi đến ngôi nhà đang xây dựng, chưa có cửa ở thôn T, xã L, TP. C, tỉnh Hải Dương của anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1971 và chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1979; cùng trú tại: Thôn T xã L, TP. C, tỉnh Hải Dương. Hải quan sát không có người nên nảy sinh ý định vào trong nhà lấy tài sản. H để xe ở ngoài, cầm đèn pin đi bộ vào trong nhà soi quan sát thấy tại khu vực cửa nhà có: 01 cuộn dây điện màu đen, nhãn hiệu Panapon loại 3c x 1,5 dài 22 mét; 01 cuộn dây điện màu vàng, nhãn hiệu Heesung loại 2c x 1,5 dài 13 mét, một đầu nối với ổ cắm loại ba ổ cắm, nhãn hiệu Vinakip, một đầu nối với phích cắm loại hai chân, nhãn hiệu Gấu đỏ, màu trắng đục; 01 cuộn dây điện màu vàng, nhãn hiệu Heesung loại 2c x 0,75 dài 20 mét, một đầu nối với ổ cắm loại ba ổ cắm, nhãn hiệu Sopoka, một đầu nối với phích cắm loại hai chân, nhãn hiệu Lioa. H lấy toàn bộ tài sản trên đem ra để ở võng xe mô tô rồi tiếp tục vào trong nhà dùng đèn pin soi xuống tầng hầm thì phát hiện 01 máy bơm nước màu ghi xám, công xuất 200w, nhãn hiệu Rollstar 200, do Công ty Tiến Phát sản xuất năm 2018 để ở cuối tầng hầm. H trèo xuống bằng thang tre và lấy chiếc máy bơm lên mang ra để ở võng xe trên các cuộn dây điện. H điều khiển xe mô tô đi đến thôn A, xã L, TP. C quan sát thấy xưởng sản xuất cống bê tông của anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1976 và chị Lê Thị M, sinh năm 1978 ở cạnh Quốc lộ 37, xưởng không có cổng, không có ai trông coi. H nảy sinh ý định vào trong xưởng lấy tài sản. H để xe mô tô ở ngoài rìa đường, cầm đèn pin đi bộ vào trong soi xung quanh thấy 01 cuộn dây điện màu vàng, nhãn hiệu Heesung loại 2c x 4 dài 10,5 mét, một đầu nối với ổ cắm loại ba ổ cắm, nhãn hiệu Sopoka loại P6000W, một đầu nối với phích cắm loại hai chân, nhãn hiệu Nival 3000W để ở trên cống bê tông. H lấy cuộn dây điện đi ra xe mô tô thì bị anh L cùng mọi người phát hiện bắt giữ và báo Công an xã L đến làm việc. Sau đó lợi dụng sở hở, H bỏ lại xe và tài sản trộm cắp và bỏ trốn.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 17/KLĐG ngày 17/5/2021, Hội đồng định giá tài sản TP. C kết luận tại thời điểm ngày 30/4/2021: 01 đoạn dây điện màu đen, nhãn hiệu Panapon loại 3c x 1,5 dài 22 mét, có giá trị là: 220.000 đồng; 01 đoạn dây điện màu vàng, nhãn hiệu Heesung loại 2c x 1,5 dài 13 mét, có giá trị là:

78.000 đồng; 01 đoạn dây điện màu vàng, nhãn hiệu Heesung loại 2c x 0,75 dài 20 mét, có giá trị là: 80.000 đồng; 01 ổ cắm loại ba ổ cắm, nhãn hiệu Vinakip có giá trị là: 10.000 đồng; 01 ổ cắm loại ba ổ cắm, nhãn hiệu Sopoka, có giá trị là: 10.000 đồng; 01 phích cắm loại hai chân, nhãn hiệu Gấu đỏ, có giá trị là: 5.000 đồng; 01 phích cắm loại hai chân, nhãn hiệu Lioa, có giá trị là: 5.000 đồng; 01 máy bơm nước màu ghi xám, công xuất 200w, nhãn hiệu Rollstar 200, sản xuất năm 2018 có giá trị là: 520.000 đồng, tổng giá trị tài sản H chiếm đoạt của gia đình anh Nguyễn Văn Q là: 928.000 đồng. 01 đoạn dây điện màu vàng, nhãn hiệu Heesung loại 2c x 4 dài 10,5 mét, có giá trị là: 126.000 đồng; 01 ổ cắm loại ba ổ cắm, nhãn hiệu Sopoka loại P6000W, có giá trị là: 25.000 đồng; 01 phích cắm loại hai chân, nhãn hiệu Nival 3000W có giá trị là: 10.000 đồng, tổng giá trị tài sản H chiếm đoạt của gia đình anh Nguyễn Văn L là: 161.000 đồng. Tổng giá trị tài sản H chiếm đoạt của gia đình anh Q và gia đình anh L ngày 30/4/2021 là: 1.089.000 đồng.

Ngoài hành vi trên Vũ Văn H còn thực hiện hành vi như sau: Khoảng 01 giờ 20 phút, ngày 22/5/2021, Vũ Văn H mang theo 01 kìm làm bằng kim loại dài 21 cm, tay cầm bọc nhựa màu xanh và 01 tô vít làm bằng kim dài 25 cm, tay cầm bọc nhựa màu đỏ rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu DAEHANIKD, loại xe CUP, màu xanh, biển số 29AA- 077.02 (xe mô tô H mượn của chị Vũ Thị N, sinh năm 1971, là chị ruột H; trú tại: KDC số 11, phường P, TP. C) đi từ nhà đến khu vực cổng Xí nghiệp lắp máy P thuộc Công ty Cổ phần L; địa chỉ: KDC số 10, phường P, TP. C, tỉnh Hải Dương thì nhìn thấy chiếc máy hàn để ở trên vỉa hè ngoài cổng Xí nghiệp có nối một đoạn dây cáp điện, nhãn hiệu Cadisun loại 3x16 + 1x10 dài 7,5 m từ máy hàn qua hàng rào vào tủ điện bên trong Xí nghiệp. Thấy không có ai, H nảy sinh ý định lấy đoạn dây điện trên. H để xe, cầm theo kìm, tô vít đi đến vị trí chiếc máy hàn rồi dùng tô vít chọc, tách các sợi đồng bên trong hai đầu dây cáp điện ra, dùng kìm cắt hai đầu dây cáp điện. Sau khi cắt xong, H nghe thấy tiếng người bên trong Xí nghiệp nên H lên xe bỏ đi. Khoảng 20 phút sau, H quay xe lại cổng Xí nghiệp để lấy đoạn dây cáp điện vừa cắt thì bị anh Nguyễn Văn T; sinh năm 1980, trú tại: KDC số 13, phường P, TP. C là bảo vệ Xí nghiệp phát hiện bắt giữ. Sau đó lợi dụng sơ hở, H bỏ lại xe và tài sản trộm cắp và bỏ trốn.

Tại kết luận định giá tài sản số 25 ngày 04/6/2021, Hội đồng định giá tài sản TP. C kết luận, tại thời điểm ngày 22/5/2021: 01 đoạn dây cáp điện, nhãn hiệu Cadisun, vỏ màu đen, loại 3x16 + 1x10 dài 7,5 mét, có giá trị là: 1.125.000 đồng; công lắp đặt dây cáp điện vào máy hàn, tủ điện, có giá trị là: 100.000 đồng. Tổng giá trị thiệt hại là: 1.225.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 76/CT-VKS-CL ngày 10/9/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã truy tố Vũ Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay:

Bị cáo Vũ Văn H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, nay đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX xem xét đến hoàn cảnh gia đình và hoàn cảnh kinh tế của bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H. Đề nghị xử phạt Hải từ 15 đến 17 tháng tù, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh giữ nguyên quan điểm truy tố theo bản Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử phạt Vũ Văn H từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 01/7/2021.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất về xử lý vật chứng và án phí của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của Vũ Văn H tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi liên quan, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ kết luận: Từ ngày 30/4/2021 đến ngày 22/5/2021, Vũ Văn H (có tiền án về tội chiếm đoạt) đã thực hiện các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố C, cụ thể:

Khoảng 00 giờ 10 phút ngày 30/4/2021, tại nhà đang xây dựng ở thôn T, xã L, TP. C, tỉnh Hải Dương của vợ chồng anh Nguyễn Văn Q, chị Nguyễn Thị H; cùng trú tại: Thôn T, xã L, TP. C, Vũ Văn H lợi dụng sơ hở đã có hành vi vào nhà trộm cắp của anh Q và chị H 03 cuộn dây điện và 01 máy bơm nước có tổng giá trị là 928.000 đồng. Đến 01 giờ, cùng ngày, tại xưởng sản xuất cống bê tông của vợ chồng anh Nguyễn Văn L, chị Lê Thị M ở thôn An L, xã L, TP. C, tỉnh Hải Dương, H tiếp tục trộm cắp của anh L, chị M 01 cuộn dây điện trị giá là 161.000 đồng. Tổng giá trị tài sản H đã trộm cắp của gia đình anh Q và gia đình anh L là 1.089.000 đồng.

Khoảng 01 giờ 20 phút, ngày 22/5/2021, tại Xí nghiệp lắp máy P thuộc Công ty Cổ phần L, ở KDC số 10, phường P, TP. C, tỉnh Hải Dương, Vũ Văn H có hành vi trộm cắp của Xí nghiệp lắp máy P 01 đoạn dây cáp điện, nhãn hiệu Cadisun, dài 7,5m nối từ máy hàn qua hàng rào vào tủ điện có giá trị là 1.225.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản 02 vụ Vũ Văn H đã trộm cắp là: 2.314.000đ.

[3] Hành vi nêu trên của Vũ Văn H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, bởi lẽ:

Hành vi của Vũ Văn H là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân - Một khách thể mà Bộ luật Hình sự đã quy định và bảo vệ. Với động cơ tư lợi, muốn chiếm đoạt tài sản của người khác nhưng không do bản thân lao động chính đáng mà có, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc bảo vệ tài sản của chủ sở hữu, lén lút chiếm đoạt tài sản của các bị hại. Bị cáo đã có 01 tiền án về tội chiếm đoạt, ngày 30/4/2021 thực hiện liên liếp 02 hành vi trộm cắp với tổng giá trị tài sản là 1.089.000 đồng đến ngày 30/6/2021 bị khởi tố vụ án và khởi tố bị can. Trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan CSĐT phát hiện ngày 22/5/2021 bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trị giá 1.225.000 đồng nên bị khởi tố vụ án và khởi tố bị can ngày 21/7/2021. Như vậy hai ngày bị cáo trộm cắp tài sản đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm và bị khởi tố vụ án khác nhau. Hành vi của bị cáo đã làm mất trật tự, trị an trên địa bàn. Bị cáo thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý, mặc dù đã nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã truy tố bị cáo H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật. Với hành vi của mình, bị cáo H phải chịu một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Để hình phạt đó không chỉ là sự trừng trị của pháp luật đối với người phạm tội mà còn là bài học để dăn đe, giáo dục chung trong cộng đồng.

[4] Xem xét, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, thấy rằng:

Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo hai lần phạm tội do vậy phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án và được giáo dục, cải tạo song vẫn không lấy đó làm bài học để sữa chữa nay lại phạm tội.

[5] Xét cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, tương xứng với tính chất hành vi mà bị cáo đã thực hiện để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người thuộc diện hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại toàn bộ tài sản bị cáo H đã chiếm đoạt cho các bị hại là anh Q, chị H, anh L, chị M và Xí nghiệp lắp máy P. Các bị hại không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe NOUVO LX, màu nâu- vàng- bạc, biển số 30H8- 8678, xe đăng ký mang tên chủ xe là ông Lê Anh T; địa chỉ: 130 G, H, Hà Nội. Qua điều tra xác định ông T đã bán chiếc xe trên vào năm 2009. Năm 2020, bị cáo H đã mua lại xe của ông Phạm Văn S; trú tại: KDC số 11, phường P, TP. C, việc mua bán chỉ bằng miệng. Qua tra cứu xác định xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Như vậy xác định chiếc xe trên là của bị cáo H, bị cáo đã dùng chiếc xe trên làm phương tiện để đi trộm cắp và chở các tài sản đã trộm cắp. Do vậy cần tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước đối với chiếc xe mô tô trên.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu DAEHANIKD, loại xe CUP, màu xanh, biển số 29AA- 077.02, xe đăng ký chủ xe là ông Nguyễn Tiến Q, địa chỉ: 12C4/10, N, Q, H, Hà Nội. Qua điều tra xác định ông Q đã tặng cho chiếc xe này cho bà Vũ Thị N. Qua tra cứu xác định xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Bà N cho bị cáo H mượn xe, việc H sử dụng chiếc xe làm phương tiện để đi trộm cắp tài sản, bà N không biết. Trên xe bà N có để 01 chiếc lục giác và 01 con dao dọc giấy, không liên quan đến tội phạm. Do vậy cần phải trả lại chiếc xe mô tô và 01 chiếc lục giác, 01 con dao dọc giấy trên cho bà N.

Đối với 01 Tô vít bằng kim loại, 01 kìm bằng kim loại, 01 đèn pin màu đỏ là tài sản của bị cáo H, H đã sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội, xét không có giá trị nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo H bị kết án nhưng là người thuộc hộ nghèo và nhiễm HIV nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 01/7/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu cho phát mại sung công quỹ nhà nước của Vũ Văn H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe NOUVO LX, màu nâu- vàng- bạc, số máy:

063051, số khung: 063042, biển số 30H8- 8678, xe không có gương bên phải, tình trạng xe đã qua sử dụng (Xe có đăng ký mang tên chủ xe là ông Lê Anh T; địa chỉ:130 G, H, Hà Nội).

Trả cho bà Vũ Thị N; sinh năm 1971; địa chỉ: KDC số 11, phường P, TP. C, tỉnh Hải Dương 01 chiếc lục giác làm bằng kim loại, 01 con dao dọc giấy dài 15cm có lưỡi dao bằng kim loại, ốp ngoài bằng nhựa màu vàng và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu DAEHANIKD, loại xe CUP, màu xanh, số máy: VZS139FMB151107, số khung: PLPDCBHUMCB001107, biển số 29AA- 077.02, phần giảm sóc, phần chắn bùn, phần hộp xích có quét sơn màu trắng, tình trạng xe cũ, đã qua sử dụng.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 Tô vít làm bằng kim loại dài 25cm, tay cầm bọc nhựa màu đỏ, 01 kìm làm bằng kim loại dài 21cm, tay cầm bọc nhựa màu xanh, 01 đèn pin màu đỏ.

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10/9/2021 của Công an thành phố Chí Linh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Chí Linh).

Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vũ Văn H.

Báo bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. Người có quyền lợi liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:86/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về