Bản án 86/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 86/2020/HS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 80/2020/TLST-HS ngày 04/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2020/QĐXXST-HS ngày 14/9/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hiếu K, sinh ngày 07/6/2002 tại Tiền Giang. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã M, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang; Chỗ ở: Ấp 1, xã P, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trường K, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1979; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/7/2020 cho đến nay. Bị cáo có m t tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Huỳnh Hoàng E, sinh năm 1996; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thới Hòa a, phường T, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. Vắng m t.

- Người chứng kiến:

Ông Huỳnh Văn Thanh U, sinh năm 1986; địa chỉ: Ấp a, xã T, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Vắng m t

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hiếu K là đối tượng nghiện ma túy từ cuối năm 2019. Do có nhu cầu cần sử dụng ma túy nên khoảng 18 giờ 20 phút ngày 01/7/2020, K sử dụng điện thoại hiệu Nokia có gắn sim 0387.807.786 gọi vào số điện thoại của L có số đuôi 64 (không rõ nhân thân lai lịch) nhờ L mua 400.000 đồng ma túy thì L đồng ý và hẹn đến địa điểm khu vực Cầu Phước Hòa. Khoảng 15 phút sau, K thuê xe ôm của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) chở đến điểm hẹn. Khi đến nơi, K thấy một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) đang đứng ở Cầu Phước Hòa, K đưa cho người này 400.000 đồng thì người đàn ông chỉ K ở dưới đất có một card điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng bên trong có 02 bịch nylon hàn kín tinh thể màu trắng chứa ma túy. Nhận được ma túy, K đem bỏ vào túi quần trước bên phải rồi đón xe ôm xuống huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để mua dụng cụ sửa chữa xe mô tô, do cửa hàng đóng cửa và không có xe để về nên K đi bộ từ Bắc Tân Uyên đến vòng xoay Cổng Xanh, xã Tân Bình, K gọi điện cho ông Huỳnh Văn Thanh U (là người anh làm công nhân chung tại khu công nghiệp Tân Bình) nhờ ông U chở K về nhà tại Ấp 1, xã P, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 23 giờ cùng ngày, khi ông U chở K đến đoạn đường ĐT741 thuộc ấp Đồng Chinh, xã Phước Hòa thì bị lực lượng Công an xã Phước Hòa kiểm tra hành chính và bắt quả tang Nguyễn Hiếu K đang tàng trữ trái phép chất ma túy nên tiến hành lập biên bản thu giữ: 02 (hai) bịch nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi vấn là ma túy); 01 (một) thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng đã qua sử dụng; 01(một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen có gắn thẻ sim 0387.807.786; 01 (một) điện thoại di động màu xanh đen hiệu ViVo; 01 (một) xe mô tô biển số 65M1-8276.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo tiến hành khám xét khẩn cấp tại số nhà 507, Ấp 1, xã P, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương của Nguyễn Hiếu K, không thu giữ được gì.

Kết luận giám định số 416/MT-PC09 ngày 08/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1743 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật hoàn lại sau giám định có khối lượng 0,1133 gam.

Tại Bản Cáo trạng số 81/CT–VKSPG ngày 03/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Hiếu K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố của Cáo trạng, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, hành vi phạm tội, xử lý vật chứng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hiếu K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình có công cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Hiếu K từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/7/2020. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư ký hiệu 416/PC09, có khối lượng 0,1133 gam niêm phong có dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, có chữ ký của bị cáo Nguyễn Hiếu K; 01 (một) thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng đã qua sử dụng. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen, số imei:

357732109082609, có gắn sim số 0387.807.786. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hiếu K 01 (một) điện thoại di động hiệu ViVo màu xanh đen, niêm phong có chữ ký của Phạm Thị H, Nguyễn Phú Q và dấu mộc của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

Phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận, đồng ý với tội danh và mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về sự vắng m t của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến vắng m t không có lý do, đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng m t không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng m t người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến theo quy định tại Điều 292 và Điều 296 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Giáo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến ho c khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp quy định của pháp luật.

[3] Về NỘI DUNG VỤ ÁN

[3.1] Do có nhu cầu cần sử dụng ma túy nên khoảng 18 giờ 20 phút ngày 01/7/2020, bị cáo gọi điện thoại nhờ L (không rõ nhân thân lai lịch) mua 400.000 đồng ma túy thì L đồng ý và hẹn đến địa điểm khu vực Cầu Phước Hòa. Khoảng 15 phút sau, bị cáo đi xe ôm đến điểm hẹn và g p người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch), đồng thời mua 400.000 đồng 02 bịch nylon hàn kín tinh thể màu trắng chứa ma túy được giấu trong một card điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng.

[3.2] Khoảng 23 giờ cùng ngày, tại đoạn đường ĐT741 thuộc ấp Đồng Chinh, xã Phước Hòa bị cáo bị lực lượng Công an xã Phước Hòa kiểm tra hành chính và bắt quả tang đang tàng trữ trái phép chất ma túy [3.3] Bản kết luận giám định số 416/MT-PC09 ngày 08/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận mẫu tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Hiếu K gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,1743 gam, loại Methamphetamine.

[3.4] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hiếu K khai nhận: Nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo công bố tại phiên tòa giống với Cáo trạng mà bị cáo đã nhận và phù hợp với diễn biến sự việc, hành vi của bị cáo.

[3.5] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người chứng kiến cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Về nhận thức, bị cáo biết được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết tăng n ng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4.1] Xét hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến chính sách quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự trị an trong khu vực, ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm mà Nhà nước ta đang tiến hành.

[4.2] Ma túy đang là hiểm họa của nhân loại, nó không những gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, kinh tế của người sử dụng mà còn làm lây lan nhiều căn bệnh xã hội nguy hiểm, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác.

[4.3] Với các tình tiết của vụ án được chứng minh tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ kết luận bị cáo Nguyễn Hiếu K đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

[4.4] Xét động cơ, mục đích phạm tội vì muốn có ma túy để sử dụng bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, có như vậy mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời nêu gương phòng ngừa chung cho xã hội.

[4.5] Về tình tiết tăng n ng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng n ng trách nhiệm hình sự.

[4.6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bà ngoại là người có công với cách mạng và được Nhà nước t ng thưởng huy chương kháng chiến được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:

[6.1] Mẫu vật hoàn lại sau giám định có khối lượng 0,1133 gam ma túy loại Methamphetamine. Đây là vật cấm tàng trữ lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[6.2] 01 (một) thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng đã qua sử dụng dùng để đựng ma túy, không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

[6.3] 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen có gắn sim số 038.780.7786, K dùng để liên hệ mua ma túy nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[6.4] 01 (một) điện thoại di động hiệu ViVo màu xanh đen của Nguyễn Hiếu K, không dùng vào việc phạm tội nên trả lại cho K.

[6.5] 01 (một) xe mô tô biển số 65M1 – 8276 của Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1969, hộ khẩu thường trú: Ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Phú, huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ đứng tên chủ sở hữu. Bà Hiền bán lại cho ông Huỳnh Hoàng E vào năm 2015 nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 01/7/2020, ông E cho Huỳnh Văn Thanh U mượn xe làm phương tiện đi lại. Xét thấy, xe mô tô trên không liên quan đến việc phạm tội nên ngày 17/8/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô trên cho ông E. Ông E nhận lại tài sản và không yêu cầu gì.

[7] Đối với Huỳnh Văn Thanh U điều khiển xe mô tô biển số 65M1 – 8276 chở bị cáo Nguyễn Hiếu K. Việc bị cáo K cất giấu ma túy trong người ông U không biết, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo không đ t ra xem xét trách nhiệm hình sự đối với ông U là phù hợp.

[8] Xét thấy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hiếu K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hiếu K 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/7/2020.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

3.1 Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư ký hiệu 416/PC09, có khối lượng 0,1133 gam niêm phong có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, có chữ ký của bị cáo Nguyễn Hiếu K; 01 (một) thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng đã qua sử dụng.

3.2 Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen, số imei: 357732109082609, có gắn sim số 0387.807.786:

3.3 Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hiếu K 01 (một) điện thoại di động hiệu ViVo màu xanh đen, niêm phong có chữ ký của Phạm Thị H, Nguyễn Phú Q và dấu mộc của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo.

(thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/9/2020 giữa Công an huyện Phú Giáo với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo) 4. Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Nguyễn Hiếu K phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng m t tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án ho c kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về