Bản án 86/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ H, TỈNH T

BẢN ÁN 86/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 25 tháng 11 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 83/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Q (tên gọi khác Câu) sinh năm 2000; tại T; trú tại: Nhà số 6, hẻm số 20, đường Phạm Văn Đ, khu phố 3, phường L, thị xã H, tỉnh T; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Thùy D; bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm 57/2019/HSST ngày 16-9-2019 tuyên phạt 12 tháng tù về tội chống người thi hành công vụ, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27-5-2020;

Tiền sự:

- Quyết định số 779/QĐ-XPVPHC ngày 24/12/2018 của bị Công an thị trấn H, huyện H (nay là phường L, thị xã H) xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa nộp phạt, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

- Quyết định số 871/QĐ-XPVPHC ngày 29/5/2019 của Công an thị trấn H, huyện H (nay là phường L, thị xã H) xử phạt hành chính 1.000.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa nộp phạt, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

- Quyết định số 88/QĐ-XPHC ngày 11-7-2019 của Công an thị xã H xử phạt Nguyễn Văn Q 3.500.000 đồng về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác. Chưa nộp phạt, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Nhân thân:

- Quyết định số 388/QĐ-XPVPHC, ngày 21/6/2017 của Công an thị trấn H, huyện H (nay là phường L, thị xã H) xử phạt hành chính 375.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa nộp phạt, đã hết thời hiệu được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25-8-2020 cho đến nay.

* Bị hại: anh Trần Nguyễn Minh C, sinh ngày 27-6-2005; địa chỉ: khu phố 3, phường L, thị xã H, tỉnh T.

* Người đại diện hợp pháp cho bị hại: anh Trần Châu Quang P, sinh năm 1978; chị Nguyễn Thị Thúy V, sinh năm 1982; địa chỉ: khu phố 3, phường L, thị xã H, tỉnh T.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Nguyễn Thị Sơn T – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 18/6/2020, sau khi uống rượu, bia, Q điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Trọng K đi trên đoạn đường thuộc khu phố 3, phường L, thị xã H. Lúc này, C cùng với 02 người bạn là Nguyễn Hoàng Y và Phạm Nguyễn Bảo N đang đứng cặp lề đường nói chuyện với nhau. Q đi ngang qua và nghĩ rằng C đang “nhìn đểu” mình nên cảm thấy bực tức. Sau khi bỏ K xuống nhà mình, Q lấy 01 con dao tự chế bằng K loại (lưỡi dao dài 28cm, mũi nhọn, bản dao rộng 05cm, cán dài 18cm có quấn băng keo màu đen, vỏ dao dài 35cm quấn băng keo màu đen) rồi một mình điều khiển xe mô tô quay lại tìm C để chém. Khi đến nơi, Q xuống xe cầm dao đi lại gần và rút dao ra khỏi vỏ, cầm dao bằng tay phải chém từ trên xuống trúng vào cẳng tay phải của C gây thương tích. Sau khi chém xong, Q cầm dao điều khiển xe đi về nhà, C được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Lê Ngọc Tùng. Đến ngày 29/6/2020, C đến Công an phường L, thị xã H trình báo sự việc và làm đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với hành vi của Nguyễn Văn Q. Hiện con dao là vật chứng của vụ án đã được thu giữ.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 118/2020/TgT ngày 20/7/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh T kết luận: 01 vết sẹo mặt sau 1/3 giữa dưới cẳng tay phải có hai nhánh và đứt gân duỗi ngón II, III, IV, V tay phải. Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Trần Nguyễn Minh C do thương tích gây nên hiện tại là 2%, thương tích phù hợp do vật sắc gây ra.

Kết quả thu giữ vật chứng: Có bản thống kê kèm theo.

Tại bản cáo trạng số: 82/CT/VKSHT ngày 13 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã H đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội: “Cố ý gây thương tích” theo các điểm a, c, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại trình bày quan điểm: Thống nhất với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại các điểm a, c, i, khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Về phần hình phạt đề nghị các ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài đủ để bị cáo suy nghĩ về hành vi của mình gây ra, cải tạo thành người công dân có ích cho xã hội. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điểm a, c, i khoản 1 Điều 134, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự tuyên phạt bị cáo mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H giữ quyền công tố tại phiên tòa, trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội: “Cố ý gây thương tích”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a, c, i khoản 1 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q mức án từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật. Về bồi thường thiệt hại: Tại phiên tòa bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm tổng số tiền là 30.000.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường số tiền này nên ghi nhận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về hòa nhập cộng đồng làm người công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, tỉnh T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn Q phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, kết luận giám định, lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 18-6-2020, bị cáo không có quen biết trước và cũng không có mâu thuẫn từ trước với anh Trần Nguyễn Minh C nhưng do khi Q chạy xe ngang qua đường thấy C nhìn mình nên bực tức, Q đã về nhà lấy 01 con dao tự chế bằng K loại chém C, C đưa tay lên đỡ nên trúng vào cẳng tay phải của C gây thương tích, tỷ lệ tổn thương cơ thể của Trần Nguyễn Minh C do thương tích gây nên là 2%. Hành vi của bị cáo thể hiện tính chất côn đồ, sử dụng dao là hung khí nguy hiểm và gây thương tích cho anh C là người chưa đủ 15 ruồi, do đó hành vi của bị cáo Q đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Cố ý gây thương tích”. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội: “Cố ý gây thương tích” theo các điểm a, c, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi và hậu quả đã gây ra. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo có nhân thân xấu, từng bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần nhưng không chấp hành nộp phạt, thể hiện bị cáo có ý thức coi thường pháp luật, nên trong lần phạm tội này xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội. Do đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là có căn cứ chấp nhận. Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm số tiền là 30.000.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường nên ghi nhận.

[5] Vật chứng: 01 con dao tự chế có lưỡi bằng kim loại dài 28cm, cán dao dài 18cm có quấn băng keo màu đen, bản dao nơi rộng nhất 5cm, mũi dao nhọn; 01 vỏ dao dài 35cm, có quấn băng keo màu đen là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ các điểm a, c, i khoản 1 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn thi hành hình phạt tù được tính từ ngày 25-8-2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 590 của Bộ luật Dân sự;

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Q có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho anh Trần Nguyễn Minh C số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

Kể từ ngày anh C có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Nguyễn Văn Q không thi hành số tiền nêu trên, thì hàng tháng bị cáo Q còn phải trả cho anh C số tiền lãi đối với số tiền chưa thi hành án tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 con dao tự chế có lưỡi bằng kim loại dài 28cm, cán dao dài 18cm có quấn băng keo màu đen, bản dao nơi rộng nhất 5cm, mũi dao nhọn; 01 vỏ dao dài 35cm, có quấn băng keo màu đen.

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng là 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm nghìn đồng).

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:86/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duyên Hải - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về