Bản án 86/2020/HNGĐ-ST ngày 28/05/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 86/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 317/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2020, về việc tranh chấp “Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Duy Đ, sinh năm 1978 - Có mặt.

Đa chỉ: Tổ 7, Khu phố A, phường D, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai.

* Bị đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1978 – Có mặt.

Đa chỉ: Tổ 7, Khu phố A, phường D, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời trình bày tại biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa nguyên đơn - ông Nguyễn Duy Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Trần Thị H kết hôn vào năm 2002, tại Ủy ban nhân dân phường D, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, hôn nhân tự nguyện. Quá trình vợ chồng chung sống không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, vợ chồng sống ly thân được khoảng 3 năm nay. Nay tình cảm không còn nên ông làm đơn yêu cầu được ly hôn với bà Trần Thị H.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Duy H, sinh ngày 25/9/2003 và Nguyễn Việt A, sinh ngày 28/5/2011. Ly hôn, ông đồng ý để hai cháu cho bà Trần Thị H nuôi dưỡng, ông tự nguyện cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 3.000.000đ (Ba triệu đồng).

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

* Tại các bản tự khai, lời trình bày tại biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa bị đơn - bà Trần Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân đúng như ông Nguyễn Duy Đ trình bày. Bà thừa nhận trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống và cũng đã ly thân được khoảng 3 năm nay. Đồng thời bà cũng xác định tình cảm vợ chồng cũng không còn nên ông Đ xin ly hôn thì bà đồng ý.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Duy H, sinh ngày 25/9/2003 và Nguyễn Việt A, sinh ngày 28/5/2011. Ly hôn, bà có nguyện vọng được nuôi dưỡng hai con và yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 3.000.000đ (Ba triệu đồng.

Về tài sản chung: Bà yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng tọa lạc tại Tổ 7, Khu phố A, phường D, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Về nợ chung: Không có.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa:

Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ đầy đủ, khách quan, thời hạn tố tụng được đảm bảo và các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ. Phiên tòa được thực hiện dân chủ, bình đẳng. Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự, xét thấy vợ chồng ông Nguyễn Duy Đ và bà Trần Thị H đều thừa nhận cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó ông Đ xin ly hôn thì bà H đồng ý nên ghi nhận sự thỏa thuận ly hôn của các đương sự. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Đ.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Duy H, sinh ngày 25/9/2003 và Nguyễn Việt A, sinh ngày 28/5/2011. Ly hôn, do ông Đ và bà H thống nhất thỏa thuận giao hai con chung cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và ông Đ cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận trên giữa ông Đ và bà H.

Về tài sản chung: Bà H có bản khai yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng là nhà và đất tọa lạc tại phường D, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, yêu cầu này của bà H sau thời điểm Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên căn cứ theo Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự thì yêu cầu của bà H không được chấp nhận.

Về nợ chung: Không có.

Về án phí ông Đ phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: ông Nguyễn Duy Đ khởi kiện bà Trần Thị H, có địa chỉ nơi cư trú: Tổ 7, Khu phố A, phường D, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, yêu cầu xin ly hôn. Căn cứ Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

[2] Về quan hệ pháp luật và pháp luật áp dụng: Ông Đ và bà H có đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân phường D, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2002 nên căn cứ theo quy định tại Điều 9, Điều 10 và Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Do vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông Đ và bà H được xác định là hôn nhân hợp pháp. Ông Đ làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà H và giải quyết về con chung, đây là quan hệ tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con chung” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Theo ông Đ trình bày, vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn, không ai còn quan tâm lo lắng cho nhau. Ông xác định vợ chồng cũng đã ly thân được khoảng 3 năm và không còn tình cảm với bà H nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Trong quá trình làm việc và tại phiên tòa hôm nay, bà H xác định quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra những mâu thuẫn như ông Đ trình bày, tình cảm vợ chồng không còn. Nay ông Đ yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn thì bà đồng ý. Xét thấy hôn nhân giữa ông Đ và bà H không thể hàn gắn, đoàn tụ, cả hai cũng đã ly thân với nhau, đời sống chung của vợ chồng là không có, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, căn cứ Điều 131 và Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận đơn xin ly hôn của ông Đ, giải quyết cho ông Đ được ly hôn bà H.

[4] Về con chung: Ông Đ và bà H có 02 con chung tên Nguyễn Duy H, sinh ngày 25/9/2003 và Nguyễn Việt A, sinh ngày 28/5/2011. Ly hôn, ông Đ và bà H đều thống nhất giao hai con chung cho bà H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, ông Đ cấp dưỡng nuôi hai con chung với số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng)/tháng. Xét thấy cháu H và cháu A hiện đang do bà H trực tiếp nuôi dưỡng, đồng thời hai cháu cũng có nguyện vọng được ở với bà H nên căn cứ vào các Điều 81, 82, 83, 84, 110 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, giao hai con chung cho bà H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Về nghĩa vụ cấp dưỡng, ông Đ phải cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 3.000.000đ (Ba triệu đồng) kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

[5] Về tài sản chung: Ông Đ đề nghị tự thỏa thuận với bà H, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án, bà H có văn bản yêu cầu Tòa án chia tài sản chung là nhà và đất tọa lạc tổ 7, Khu phố A, phường D, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. Tuy nhiên, yêu cầu trên của bà H sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét về yêu cầu chia tài sản chung của bà H. Các đương sự có quyền khởi kiện giải quyết chia tài sản chung bằng một vụ án khác khi có yêu cầu và theo quy định pháp luật.

[6] Về nợ chung: Ông bà trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí: Ông Đ phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 110, 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ các Điều 357, Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên :

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Duy Đ.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Duy Đ được ly hôn với bà Trần Thị H.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Duy H, sinh ngày 25/9/2003 và Nguyễn Việt A, sinh ngày 28/5/2011 cho bà H trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Ông Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung với số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng)/tháng, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các con đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động.

Ông Nguyễn Duy Đ không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo thủ tục pháp luật quy định.

3. Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét về yêu cầu chia tài sản chung của bà Huyền. Các đương sự có quyền khởi kiện giải quyết chia tài sản chung bằng một vụ án khác khi có yêu cầu và theo quy định pháp luật.

4. Về nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

5. Về án phí: Nguyên đơn ông Đ phải nộp số tiền 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0007820 ngày 30/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Ông Đức còn phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2020/HNGĐ-ST ngày 28/05/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:86/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về