TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 86/2019/HSST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Ea H’leo mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 85/2019/HSST, ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2019/QĐXXST-HS ngày 15/11/2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: NAY A; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 12/6/1996 tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn Đ, xã L, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Jarai; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp;
Trình độ học vấn: Không biết chữ; Cha: Rmah S, sinh năm 1973; Mẹ: Nay H, sinh năm 1974; Vợ: Ksơr C; sinh năm 1996 ( Đã ly hôn); Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015;
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 11/7/2018, bị cáo bị Công an huyện Ea H’leo ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền, với số tiền 1.500.000đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Hiện đã chấp hành xong.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 06/10/2019 đến ngày 15/10/2019, bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp Lệnh cấm đi khỏi nơi cứ trú. Có mặt tại phiên toà.
Bị hại: Anh Adrơng T, sinh năm 1986. Có mặt.
Nơi cư trú: Buôn E, xã L, huyện B, tỉnh Đắk Lắk
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Rah N, sinh năm 1993. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
Nơi cư trú: Buôn R, xã I, thị xã P, tỉnh Gia Lai
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ ngày 05/10/2019, Nay A đi bộ một mình trên đường thì phát hiện tại sân nhà anh Adrơng T, ở Buôn E, xã L, huyện B có 01 xe máy cày, không biển kiểm soát nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy cày trên để lấy tiền tiêu xài. Lúc này, Nay A đi vào trong sân nơi để xe máy cày rồi dùng tay quay nổ máy và điều khiển xe máy cày vừa trộm cắp đến buôn R, xã I, thị xã P, tỉnh Gia Lai, bán cho anh Rah N được số tiền 7.000.000 đồng nhưng Rah N giao cho A trước 3.500.000 đồng và hẹn đến trưa ngày 06/10/2019 sẽ giao số tiền còn lại. Vì nghi ngờ xe máy cày không phải của Nay A nên anh Rah N trình báo đến Công an xã I. Đến sáng ngày 06/10/2019, khi Nay A đến lấy tiền thì bị Công an xã I phối hợp với Công an huyện Ea H’Leo bắt giữ.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 776 và 777/BB-ĐGTS ngày 11 tháng 10 năm 2019, của Hội đồng định giá tài sản huyện B, kết luận: 01 xe máy cày, điều khiển bằng vô lăng, đầu máy nhãn hiệu Cao Phong, 24 mã lực, màu đỏ, thùng xe bằng kim loại, sàn thùng xe bằng gỗ, được mua vào năm 2000, có giá 12.000.000 đồng.
Tại biên bản khám nghiệm hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo, lâp hồi 15 giờ 10 phút ngay 06 tháng 10 năm 2019, thể hiện: Hiên trương la tại nhà anh Adrơng T, ở buôn E, xã L, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
Tại biên bản xác định hiện trường nơi tiêu thụ tài sản trộm cắp do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo lâp hồi 09 giờ ngay 06 tháng 10 năm 2019, thê hiên: Hiên trương la tại nhà anh Rah N, ở Buôn R, xã I, thị xã P, tỉnh Gia Lai.
Đối với anh Rah N có hành vi mua xe máy cày của Nay A nhưng anh Rah N không biết đây là tài sản trộm cắp nên không có căn cứ để xử lý.
Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã tạm giữ 01 xe máy cày, điều khiển bằng vô lăng, đầu máy nhãn hiệu Cao Phong, 24 mã lực, màu đỏ, thùng xe bằng kim loại, sàn thùng xe bằng gỗ. Sau khi xác định được chủ sở hữu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã giao trả chiếc xe máy cày trên cho anh Adrơng T là chủ sỡ hữu hợp pháp.
Vê dân sư: Sau khi nhận lại tài sản, bị hại là anh Adrơng T không yêu cầu gì về dân sự. Anh Rah N yêu cầu Nay A phải đền bù số tiền 3.500.000 đồng, mà anh Rah N đã mua xe của Nay A.
Tại bản Cáo trạng số 91/CT-VKS, ngày 15 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’leo truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo để xét xử đối với bị cáo Nay A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra.
Tại phiên tòa, bị hại anh Adrơng T không có yêu cầu gì về dân sự đối với bị cáo.
Qua phần tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên đưa ra các chứng cứ buộc tội và đánh giá tính chất mức, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Đồng thời vẫn giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Nay A từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46 và 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H'Leo đã ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả 01 xe máy cày, điều khiển bằng vô lăng, đầu máy nhãn hiệu Cao Phong, 24 mã lực, màu đỏ, thùng xe bằng kim loại, sàn thùng xe bằng gỗ cho anh Adrơng T là chủ sở hữu hợp pháp.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo phải bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Rah N số tiền 3.500.000đồng mà anh Rah N đã mua xe của bị cáo.
Tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.
Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ea H’leo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Vào khoảng 11 giờ ngày 05/10/2019, tại Buôn E, xã L, huyện B, tỉnh Đắk Lắk, Nay A đã co hanh vi lén lút trôm căp 01 xe máy cày, không biểm kiểm soát, điều khiển bằng vô lăng, đầu máy nhãn hiệu Cao Phong, 24 mã lực, màu đỏ, thùng xe bằng kim loại, sàn thùng xe bằng gỗ của anh Adrơng T, tài sản bị chiếm đoạt trị giá 12.000.000 đông.
Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự thì:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm."
Như vậy, hành vi trộm cắp của bị cáo Nay A nói trên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như đã viện dẩn nêu trên.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Không những xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây hoang mang trong nhân dân. Bị cáo nhận thức được rằng quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật Nhà nước bảo vệ. Mọi hành vi chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp sẽ bị xử lý thích đáng theo qui định của pháp luật. Nhưng do bản tính tham lam, lười lao động, muốn nhanh chóng kiếm tiền để sử dụng cho bản thân mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Về nhân thân bị cáo thì thấy, trước đây, vào ngày 11/7/2018, bị cáo đã bị Công an huyện Ea H’leo ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền, với số tiền 1.500.000đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Tuy bị cáo đã chấp hành xong nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân, không ăn năn, sửa đổi mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nói trên, thể hiện tính coi thường pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian nhất định. Có như vậy mới phát huy được tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp, không biết chữ nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.
Xét Lời luận tội cũng như đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, nên cần chấp nhận.
[3] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46 và 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H'Leo đã ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả 01 xe máy cày, điều khiển bằng vô lăng, đầu máy nhãn hiệu Cao Phong, 24 mã lực, màu đỏ, thùng xe bằng kim loại, sàn thùng xe bằng gỗ cho anh Adrơng T là chủ sở hữu hợp pháp.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Nay A phải bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Rah N số tiền 3.500.000đồng mà anh Rah N đã mua xe của bị cáo.
[5] Về án phí:
Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm về trách nhiệm bồi thường dân sự.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật là 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nay A phạm tội Trộm cắp tài sản.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Nay A 09 (chín) tháng tù, được khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/10/2019 đến ngày 15/10/2019. Thời hạn phạt tù bị cáo còn phải chấp hành là 08 (tám) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46 và 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H'Leo đã ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả 01 xe máy cày, điều khiển bằng vô lăng, đầu máy nhãn hiệu Cao Phong, 24 mã lực, màu đỏ, thùng xe bằng kim loại, sàn thùng xe bằng gỗ cho anh Adrơng T là chủ sở hữu hợp pháp.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Nay A phải bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Rah N số tiền 3.500.000đồng mà anh Rah N đã mua xe của bị cáo.
Về án phí:
Áp dụng khoản 1 Điều 23 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nay A phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000đồng án phí Dân sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết công khai bản án.
Bản án 86/2019/HSST ngày 26/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 86/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về