Bản án 86/2019/HS-ST ngày 02/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 86/2019/HS-ST NGÀY 02/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02/7/2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 78/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

- Nguyễn Ngọc T (tên gọi khác: /), sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 874/56/23/1 đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 20 đường D, phường E, Quận F,, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: nhạc công; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Nguyễn Ngọc F sinh năm 1959 và con bà Lý Thị S, sinh năm 1958; có vợ và 01 con; Tiền sự, tiền án: kng; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2018 (Có mặt).

- Đỗ Hồ H (tên gọi khác: /), sinh năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 64/1A đường U, xã I, huyện P, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 491/13 đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Đỗ Văn A sinh năm 1955 và con bà Hồ Ngọc X, sinh năm 1955; có vợ và 02 con; Tiền sự, tiền án: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2018 (Có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Nguyễn Ngọc R, sinh năm 1959; địa chỉ: 129F/186/64 đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Anh Võ Hùng O, sinh ngày 01 tháng 11 năm 2001; địa chỉ: 160/27/25/1I đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh;

Ngưi đại diện hợp pháp của anh O: bà Nguyễn Thị Trúc G, sinh năm 1982, địa chỉ: 160/27/25/1I đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh, là mẹ ruột của anh O (vắng mặt).

- Anh Võ Thanh Y, sinh năm 1989; địa chỉ: 75/50D đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc T là người nghiện ma túy. T mua bán ma túy được khoảng 01 tháng. Nguồn ma túy, T mua của người phụ nữ tên Hoa (chưa rõ lai lịch) ở đường Tôn Đản, Quận 4 được 03 lần, mỗi lần 01 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng, phân nhỏ để bán cho người nghiện. T đã nhiều lần bán ma túy cho người nghiện tại phòng trọ của T ở địa chỉ T06 nhà 20, đường 53, phường Bình Thuận, Quận 7, cụ thể như sau: bán cho Võ Hùng Vĩ 05 lần vào các ngày 05, 06, 21, 23, 24/12/2018 mỗi lần 01 gói ma túy với giá 150.000 đồng; bán cho Võ Thanh Y 03 lần vào các ngày 21, 22, 23/12/2018 mỗi lần 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng và bán cho những người nghiện khác như Huy, Y ở huyện Nhà Bè không rõ lai lịch.

Ngoài ra, khi T bận công việc, không giao ma túy cho người nghiện được thì T nhờ anh vợ là Đỗ Hồ H mang đi bán cho người nghiện, bản thân H cũng nghiện ma túy. H giao ma túy cho T được 03 lần, 02 lần vào các ngày 14, 15/11/2018 (âm lịch), mỗi lần 01 gói ma túy giá 200.000 đồng, để bán cho người nghiện không rõ lai lịch. Lần thứ 03, vào khoảng 15 giờ 20 phút ngày 25/12/2018, T đưa H 01 gói ma túy để bán cho người nghiện (có số điện thoại 0797955687) với giá 300.000 đồng nhưng H chưa kịp bán thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 7 bắt quả tang tại trước địa chỉ 21B Mai Văn Vĩnh, phường Tân Quy, Quận 7. Thu giữ trong lòng bàn tay trái của H 01 gói nylon chứa tinh thể không màu. Qua lời khai của H, vào lúc 16 giờ cùng ngày, đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 7 truy bắt được H tại giao lộ đường 37 và Lâm Văn Bền, phường Tân Quy, Quận 7.

Qua khám xét khẩn cấp phòng trọ của Nguyễn Ngọc T ở địa chỉ T06 nhà 20, đường 53, phường Bình Thuận, Quận 7, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 7 phát hiện và thu giữ 01 gói nylon chứa bột màu trắng, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 cân điện tử và 10 túi nylon.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận: lần thứ nhất H không biết T đưa ma túy cho H đi bán, do T bỏ ma túy vào trong điện thoại rồi đưa điện thoại kêu H đi giao cho con nghiện, lần thứ hai và thứ ba thì H biết đó mà ma túy. H không được T trả công bằng tiền mà được T cho ma túy để sử dụng. Trong quá trình mua bán ma túy, T thu lời bất chính được 700.000 đồng, số tiền này T tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng chung với H hết.

Theo Kết luận giám định số 268/KLGĐ-H ngày 02/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh: “Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Ngọc T, Đỗ Hồ H và hình dấu Công an phường Tân Quy, Quận 7, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5254g (không phẩy năm hai năm bốn gam), loại Methamphetamine. Bột màu trắng trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Ngọc T và hình dấu Công an phường Bình Thuận, Quận 7, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2861g (không phẩy hai tám sáu một gam), loại Ketamine” Tại Bản cáo trạng số 91/CT- VKSQ7 ngày 09/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Đỗ Hồ H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên xử các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Đỗ Hồ H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b,c khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù đến 08 (tám) năm tù; phạt tiền từ 5.000.000đ (năm triệu đồng) đến 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Đỗ Hồ H từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù; phạt tiền từ 5.000.000đ (năm triệu đồng) đến 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy phù hợp với nội dung vụ án được tóm tắt như trên, không tự bào chữa, không tranh luận và đã thể hiện sự ăn năn hối cải, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

- Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;

- Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa, kết luận giám định số 268/KLGĐ-H ngày 02/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ xét đã có đủ cơ sở để kết luận:

Bị cáo Nguyễn Ngọc T đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Võ Thanh Y 05 lần vào các ngày 05, 06, 21, 23, 24/12/2018 mỗi lần 01 gói ma túy với giá 150.000 đồng; bán cho Võ Thanh Y 03 lần vào các ngày 21, 22, 23/12/2018 mỗi lần 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng và bán cho những người nghiện khác như Huy, Y ở Nhà Bè không rõ lai lịch. Hành vi này của bị cáo Nguyễn Ngọc T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp: “phạm tội 02 lần trở lên” và “đối với 02 người trở lên”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 truy tố là đúng người, đúng tội.

Đi với bị cáo Đỗ Hồ H, mặc dù chưa bắt được con nghiện có số điện thoại 0797955687, đã gọi đặt mua ma túy nhưng trong quá trình điều tra, tiến hành đối chất cũng như tại phiên tòa, các bị cáo T, H đều khai nhận: lần thứ nhất khi T đưa ma túy cho H đi bán, do T bỏ ma túy vào trong điện thoại rồi đưa điện thoại kêu H đi giao cho con nghiện nên H không biết trong điện thoại có ma túy. Tuy nhiên, đến lần thứ hai và thứ ba, khi T bận việc không giao được ma túy cho con nghiện thì T đã kêu H đi giao, H biết đó mà ma túy và đã thay T đi giao ma túy cho các con nghiện.

Hành vi này của bị cáo Đỗ Hồ H đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát nhân dân quận 7 truy tố là đúng người, đúng tội.

c bị cáo ý thức rõ hành vi mua bán ma túy của mình là vi phạm pháp luật. Nhưng để có ma túy sử dụng, các bị cáo đã cố ý thực hiện nhiều lần hành vi phạm tội, gây nguy hiểm cho xã hội vì tội phạm về ma túy gây tác hại lớn cho con người và xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác nên cần có mức án nghiêm khắc đối với các bị cáo mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Trong vụ án này, bị cáo T có vai trò chủ mưu cầm đầu, tự đi mua ma túy về phân nhỏ ra để bán kiếm lời; bị cáo H biết rõ là ma túy nhưng vẫn giúp T mang đi bán cho các con nghiện, thu tiền về cho bị cáo T và được bị cáo T trả công bằng ma túy. Các bị cáo là đồng phạm giản đơn.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Bị cáo T phạm tội nhằm mục đích thu lợi nên còn bị phạt tiền và phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 700.000đ (bảy trăm ngàn đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo H phạm tội mặc không thu lợi từ việc mua bán ma túy của bị cáo T nhưng số tiền thu lợi từ việc bán ma túy được dùng để mua ma túy để H, T cùng sử dụng nên cần phạt tiền để sung quỹ Nhà nước.

[5] Đối với anh Võ Hùng O và anh Võ Thanh Y, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đã có Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là có căn cứ.

Đi với người phụ nữ tên Hoa ở Tôn Đản, Quận 4 bán ma túy cho bị cáo T do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[6] Xử lý vật chứng vụ án:

- Lưu vào hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD ghi âm, ghi hình Nguyễn Ngọc T, Đỗ Hồ H và 01 (một) USB - Tịch thu tiêu hủy 02 gói nylong chứa 0,5254g (không phẩy năm hai năm bốn gam), loại Methamphetamine và 0,2861g (không phẩy hai tám sáu một gam), loại Ketamine”, niêm phong vụ số 268/2019/Q7.

- Tịch thu tiêu hủy 01 cân điện tử, 10 bịch nylon nhỏ dùng để mua bán ma túy, 01 hộp giấy màu xanh, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, số Imei 353420091864135 mà H sử dụng để liên lạc với người mua bán ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, không rõ số imei, T sử dụng để mua bán ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Docomo màu đen, không rõ số imei mà Y sử dụng để liên lạc với T mua ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh, không rõ số imei, O sử dụng để liên lạc với T mua ma túy.

- 01 xe gắn máy biển số 59C1-246.58, số khung: 218CY-574060, số máy: C52E-4218629. Qua xác minh, xe do ông Nguyễn Ngọc R đứng tên chủ sở hữu. Ngày 25/12/2018, ông V cho H mượn xe để mua đồ. Việc H sử dụng xe để mua bán ma túy, ông R không biết nên xét trả lại xe cho ông Nguyễn Ngọc R là có căn cứ.

- 01 xe gắn máy biển số 59C1-674.66, số khung: 580XEY517397, số máy: JF58E0403179. Qua xác minh, xe do Nguyễn Ngọc T đứng tên chủ sở hữu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không chứng minh được T dùng xe này để đi mua bán ma túy, nên trả lại xe cho Nguyễn Ngọc T là có căn cứ.

[7] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Ngọc T và Đỗ Hồ H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm b,c khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc T 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2018.

Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc T phải nộp phạt số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng).

2. Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt : Bị cáo Đỗ Hồ H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2018 Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc T phải nộp phạt số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng).

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015:

- Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc T nộp lại số tiền thu lợi bất chính 700.000đ (bảy trăm ngày đồng) để sung quỹ nhà nước.

Áp dụng Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015: Kể từ ngày cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành án về khoản tiền bị cáo T phải nộp lại, nếu bị cáo T chưa thi hành các khoản tiền trên thì hàng tháng bị cáo còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành tại thời điểm thi hành.

- Lưu vào hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD ghi âm, ghi hình Nguyễn Ngọc T, Đỗ Hồ H và 01 (một) USB.

- Tịch thu tiêu hủy 02 gói nylong niêm phong vụ số 268/2019/Q7.

- Tịch thu tiêu hủy 01 cân điện tử, 10 bịch nylon nhỏ dùng để mua bán ma túy, 01 hộp giấy màu xanh, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, số Imei 353420091864135; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, không rõ số imei; 01 điện thoại di động hiệu Docomo màu đen, không rõ số imei; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh, không rõ số imei.

- Trả lại xe cho ông Nguyễn Ngọc R 01 xe gắn máy biển số 59C1-246.58, số khung: 218CY-574060, số máy: C52E-4218629.

- Trả lại xe cho Nguyễn Ngọc T 01 xe gắn máy biển số 59C1-674.66, số khung: 580XEY517397, số máy: JF58E0403179.

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 89 ngày 19/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 7).

3. Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.

5. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

567
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2019/HS-ST ngày 02/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về