Bản án 86/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 86/2018/HS-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CaoLộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/2018/TLST-HS ngày 02/11/2018 đối với bị cáo:

Hà Văn T (tên gọi khác Hà Viết T), sinh ngày 12/02/1971, tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Khu G, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn D (đã chết) và bà Sằm Thị D1 (đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Có 05 tiền án đã được xóa án tích cụ thể: Tại bản án số 39 ngày 29/11/1995 Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc xử 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; tại bản án số 26/HS-ST ngày 05/05/1997 bị Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; tại bản án số 37/HS-ST ngày 20/10/1998 bị Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bản án số 126/HS-ST ngày 14/8/2003 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 năm tù về tội Cướp tài sản; tại bản án số 45/2014/HS-ST ngày 30/7/2014 Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Có 02 tiền sự đã đượcxóa: Quyết định số: 19/QĐ-XPHC ngày 18/9/2010 Công an huyện Cao Lộc xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp, hình thức xử phạt cảnh cáo; quyếtđịnh số: 130 ngày 31/10/2010 Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn đưa vào cơ sở giáo dục thời hạn 24 tháng; bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc từ ngày 25/7/2018 đến nay, có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Quang T1, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 10 phút ngày 25/7/2018, tổ công tác đồn Công an Đồng Đăng, huyện Cao Lộc khi đang làm nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự tại khu L, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì phát hiện bắt quả tang đối tượng Hà Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại túi trước bên trái quần dài T đang mặc 01 túi nilon bên trong có 05 gói nhỏ màu trắng đều chứa chất bột màu trắng, nghi là ma túy hêrôin. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật và đưa đối tượng về trụ sở để làm rõ.

Bản Kết luận giám định số 284/KL-PC54 ngày 27/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy hêrôin, có tổng khối lượng 0,177 gam (đã trừ bì).

Hoàn lại sau giám định mẫu vật đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc theo biên bản giao nhận ngày 01/11/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc và Chi cục Thi án huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn gồm: Một phong bì của Công an huyện Cao Lộc ghi “VẬT CHỨNG THU GIỮ CỦA HÀ VĂN T” (cũ) có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình Chiến, trợ lý giám định và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự phần giáp lái mới. Bên trong có: 0,110 gam hêrôin.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hà Văn T khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 08 giờ 45 phút ngày 25/7/2018, T từ nhà ra Khu G thị trấn Đ, huyện C mua 05 gói ma túy với giá 500.000 đồng của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên tuổi, địa chỉ, mục đích để sử dụng. Sau khi mua xong T đem số ma túy trên đút vào túi quần bên trái và đi bộ về nhà thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.

Tại bản Cáo trạng số: 84/CT-VKS, ngày 01 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Hà Văn T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh LạngSơn luận tội và đề nghị:

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo Hà Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hà Văn T từ 02 năm đến 03 năm tù. Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự, tuyên tịch thu và tiêu hủy 0,110 gam ma túy hêrôin thu giữ của Hà Văn T hoàn lại sau giám định.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định và có quyền kháng cáo bản án theo luật định. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn do luật định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo Hà Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo khai phù hợp với lời khai của bị cáo khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời căn cứ kết luận giám định số: 284/KL-PC54 ngày 27/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, 05 gói chất bột mầu trắng thu giữ của Hà Văn T gửi giám định đều là chất ma túy hêrôin, có tổng khối lượng 0,177 gam. Do vậy có đủ cơ sở kết luận vào hồi 09 giờ 10 phút ngày 25/7/2018 tại khu vực L, thị trấn Đ, huyện C Hà Văn T đã có hành vi Tàng trữ trái phép khối lượng 0,177 gam chất ma túy hêrôin.

 [2] Hành vi phạm tội của bị cáo Hà Văn T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước hành vi đó bị coi là tội phạm được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

 [3] Xét bị cáo có đủ khả năng để nhận thức về tác hại của ma túy, hiểu rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Trong tình hình tội phạm về ma túy và hậu quả của việc sử dụng ma túy gây mất an ninh trật tự xã hội như hiện nay, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo cần xử phạt nghiêm minh để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

 [4] Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hà Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

 [5] Từ những phân tích trên đây thấy hành vi phạm tội của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" tội phạm và hình phạtđược quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, đúng như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Điều luật quy định.

1. “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy, mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methanphetamine, Amptamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…”

 [6] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Thấy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt đến 05 năm tù.

 [7] Về nhân thân: Bị cáo có 05 tiền án , 02 tiền sự đã được xóa án tích như nêu tại phần lý lịch.

 [8] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

 [9] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo những tình tiết liên quan đến việc phạm tội của bản thân nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. “Người phạm tội thành khẩn khai báo…”.

 [10] Căn cứ vào quy định khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; căn cứ vào nhân thân à tình tiết giảm nhẹ  bị cáo được hưởng; căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX thấy cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù cóthời hạn một thời gian để cho bị cáo cải tạo thành người tốt, có như vậy mới có tắc dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

 [11] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản nên không tuyên phạt tiền đối với bị cáo.

 [12] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,110 gam ma túy hêrôin thu giữ của Hà Văn T hoàn lại sau giám định xác định là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tuyên tịch thu và tiêu hủy (Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự). Vật chứng hiện được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/11/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.

 [13] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức hình phạt Hội đồng xét xử xét thấy có phần hơi cao vì lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn, nên Hội đồng xét xử quyết định cho bị cáo mức thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát cho phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các vấn đề khác là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [14] Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp và không có khiếu nại, tố cáo.

 [15] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

 [16] Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn theo quy định của luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Phạt bị cáo Hà Văn T 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn bị cáo chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 25/7/2018.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 0,110 gam ma túy hêrôin hoàn lại sau giám định được gói trong 01 phong bì niêm phong dán kín ghi chữ “ VẬT CHỨNG THU GIỮ CỦA HÀ VĂN T” (cũ) có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình Chiến, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự phần giáp lái mới. (Vật chứng trên hiện có tại Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/11/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc với Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Hà Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm số tiền 200.000đồng để sung quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hà Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về