Bản án 86/2018/HSST ngày 14/06/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 86/2018/HSST NGÀY 14/06/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Trong ngày14 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế (60 Nguyễn Huệ, Huế) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2018/HSST ngày 27 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2018/QĐXXST-HS ngày 31/5/2018 đối với bị cáo:

Mai Văn T, tên gọi khác: Không; sinh ngày 01/4/1971 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: Đường B, xã H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Con ông Mai T (chết) và bà Lê Thị T, sinh năm 1949; có vợ Lê Thị Ngọc C và 02 con, con lớn nhất 22 tuổi, con nhỏ nhất 19 tuổi; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Bị hại: Ông Trần Đại Đ, sinh năm 1954. Nơi cư trú: Đường T, phường P, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1962. Nơi cư trú: Đường T, phường P, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

Người làm chứng:

Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1959. Nơi cư trú: Đường M, phường P, thành phố Huế, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 10 phút ngày 26/02/2017, Mai Văn T có giấy phép lái xe hạng A1 điều khiển xe mô tô 75H5-2088 đi trên đường Đ theo hướng từ chợ P đến đường H. Khi đi đến đoạn đường trước số nhà 63 đường Đ, T điều khiển xe chạy sang phần đường của xe ngược chiều để chuẩn bị cho xe vượt qua nên đã va chạm vào xe môt tô 75F8-4322 do ông Trần Đại Đ có giấy phép lái xe hạng A1 điều khiển đi theo hướng ngược lại gây ra tai nạn giao thông.

Khi Công an đang bảo vệ hiện trường vụ tai nạn thì có ông Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô 75H5-9042 đi trên đường Đ theo hướng đường H đến chợ P, khi đi đến đoạn đường trên do thiếu chú ý quan sát nên ông L đã để xe mô tô do mình điều khiển va chạm vào xe mô tô 75F8-4322 đang nằm ở hiện trường tự gây ra tai nạn giao thông.

Hậu quả: Bị cáo T, ông Đ, ông L bị thương được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Trung ương Huế, 03 xe mô tô hư hỏng.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tổn thương cơ thể số 371-17/TgT ngày 27/11/2017 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế đã giám định và kết luận thương tích của ông Trần Đại Đ như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Chấn thương sọ não xuất huyết bán cầu não phải đã phẫu thuật giảm áp hiện tại khuyết sọ diện lớn, liệt nửa người mức độ nặng, sa sút trí tuệ 73%.

2.Tỷ lệ tổn thương cơ thể hiện tại là 73%.

Về hiện trường: Lấy cổng nhà số 63 đường Đ làm mốc khám nghiệm, hướng khám nghiệm từ chợ P đến đường H. Đoạn xảy ra tai nạn rộng 7m90, được trải nhựa bằng phẳng ở giữa có vạch kẻ đường đứt quãng phân chia thành hai làn xe chạy ngược chiều nhau mỗi bên rộng 3m95. Xe mô tô 75F8-4322 sau tai nạn ngã nghiêng bên phải, đầu xe quay về hướng chợ P chếch sang trái, trục trước, trục sau cách mép đường về bên trái lần lượt là 5m40, 6m50 và trục sau cách trục trước xe mô tô 75H5-9042 là 0m25. Xe mô tô 75H5-9042 sau tai nạn ngã nghiêng bên trái, phần đầu chắn đè lê xe mô tô 75F8-4322, trục trước cách mép phải 6m20. Dấu vết số 3 là vết cày (1) dài 1m00, điểm đầu cách mép phải là 6m00, điểm cuối nằm dưới gác chân trước bên phải xe mô tô 75F8-4322. Dấu vết 4,5,6 là các vùng vỡ có kích thước lần lượt là 00m50x00m20, 00m60x 00m40, 0m10x 0m10. Dấu vết số 7 là vùng máu có kích thước 0m60x 0m50, tâm vùng máu cách trục sau xe mô tô 75H5- 2088 là 00m70, cách mép phải là 3m20. Dấu vết số 8 là vết cày (2) dài 0m10, điểm đầu cách mép phải là 4m10, điểm cuối cách nằm dưới gác chân trước bên phải xe môt tô 75H5-2088. Xe mô tô 75H5-2088 sau tai nạn ngã nghiêng sang phải, đầu hướng đường H, đuôi hướng chợ P, trục sau, trục trước cách mép đường phải lần lượt là 4m10, 4m40.

Về phương tiện: Xe mô tô 75F8-4322 sau tai nạn: Vùng nhựa đầu đèn xe bung vỡ phức tạp kích thước (45x20)cm. Dè trước vỡ hoàn toàn. Phuộc trước phải, gãy rời, điểm gãy cách mặt đất 55cm. Chân số cong lệch trước ra sau, gác chân trước trái cong lệch. Xe mô tô 75H5-2088 sau tai nạn: Đầu mút chân số trước chà xước kim loại kích thước(1x1)cm. Gác chân trước bên trái bị cong lệch trước ra sau. Ốp chắn xích có dính nhiều chất màu đỏ. Xe mô tô 75H5-9042 sau tai nạn: Vành trước cong lún hướng từ ngoài vào trong, kích thước (10x2)cm, tâm lún cách chân van 14cm theo chiều tịnh tiến tới.

Từ dấu vết để lại trên hiện trường, phương tiện xác định cụm chân số, gác chân trước bên trái xe 75H5-2088 do Mai Văn T điều khiển va chạm vào phuộc trước bên trái, chân số, gác chân trước bên trái xe mô tô 75F8-4322 do ông Trần Đại Đ điều khiển đi theo hướng ngược lại trong khoảng từ dấu vết số 03 đến dấu vết 08 trên hiện trường thuộc phần đường xe ông Trần Đại Đ điều khiển.

Về trách nhiệm dân sự: Qúa trình làm việc tại Toà án, giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thoả thuận bồi thường thiệt hại về các khoản: chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của bị hại; thu nhập thực tế bị mất của bị hại; chi phí và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc bị hại trong thời gian điều trị; chi phí chăm sóc bị hại; tiền bù đắp tổn thất tinh thần với số tiền 222 triệu đồng, bị cáo đã bồi thường tổng số tiền 222 triệu đồng.

Về xử lý vật chứng: Sau khi tạm giữ xe mô tô 75F8-4322, 75H5-9042 và 75H5-2088 để khám phương tiện phục vụ điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Mai Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 69/CT-VKS ngày 21/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định truy tố bị cáo Mai Văn T về tội “Vi phạm quy đinh về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế thực hành quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Mai Văn T từ 06 tháng đến 09 tháng tù .

Tại phiên toà hôm nay, đại diện hợp pháp của bị hại là bà Nguyễn Thị T yêu cầu bị cáo bồi thường thêm tiền chi phí bình thở ô xy cho bị hại với tổng số tiền 18 triệu đồng. Bị cáo cũng nhất trí yêu cầu trên. Bà Tình đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Huế, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên toà, bị cáo Mai Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn, kết luận giám định pháp y, lời khai của đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 19 giờ 10 phút ngày 26/02/2017, tại đoạn đường trước số nhà 63 đường Đ, phường P, thành phố Huế, Mai Văn T có giấy phép lái xe hợp lệ điều khiển xe mô tô 75H5-2088 đi không đúng phần đường quy định nên đã để cụm chân số, gác chân trước bên trái va chạm vào phuộc trước bên trái, chân số, gác trước bên trái xe mô tô 75F8-4322 do ông Trần Đại Đ điều khiển đang theo hướng ngược lại gây ra tai nạn giao thông. Hậu quả ông Trần Đại Đ bị thương với tỷ lệ thương tích là 73%.

Hành vi của bị cáo Mai Văn T đã vi phạm quy định tại khoản 1 điều 9 Luật giao thông đường bộ, gây hậu quả nghiêm trọng nên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội: “ Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm2009. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố đối với bị cáo Mai Văn T là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã được học luật giao thông đường bộ và có giấy phép lái xe, nhưng do không tuân thủ các nguyên tắc an toàn giao thông đường bộ, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây hậu quả nghiêm trọng, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Xét về mức độ lỗi trong vụ tai nạn thì thấy lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng nào.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại xong về phần dân sự theo yêu cầu của đại diện hợp pháp của bị hại; đã được đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

[6] Về hình phạt: Nhận thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ; có nơi cư trú rõ ràng; nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; có thể tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, mà cho bị cáo hưởng án treo, đồng thời ấn định thời gian thử thách và giao bị cáo cho chính quyền địa phương cùng gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách, là phù hợp, đảm bảo theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay, đại diện hợp pháp của bị hại và bị cáo đã tự nguyện thoả thuận bị cáo chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 240 triệu đồng, bao gồm các khoản sau: chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của bị hại; thu nhập thực tế bị mất của bị hại; chi phí và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc bị hại trong thời gian điều trị; chi phí chăm sóc bị hại; tiền bù đắp tổn thất tinh thần, bình thở ô xy. Bị cáo đã bồi thường số tiền 222 triệu đồng. Số tiền còn lại là 18 triệu đồng ( 240.000.000 đồng- 222.000.000 đồng = 18.000.000 đồng), bị cáo phải tiếp tục bồi thường ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng: Sau khi tạm giữ xe mô tô 75F8-4322, 75H5-9042 và 75H5-2088 để khám phương tiện phục vụ điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là đúng pháp luật, tại phiên tòa không có ai có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí:

- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

- Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí trên số tiền 18 triệu đồng bị cáo còn phải thanh toán là 900.000 đồng (tức là 18.000.000 đồng x 5% = 900.000 đồng) .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Mai Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

2. Về hình phạt:

-Áp dụng: Khoản 1 Điều 202 ; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt: Bị cáo Mai Văn T 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thửa thách 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Mai Văn T cho Ủy ban nhân dân xã H, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 và Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:

Công nhận sự thoả thuận của bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại về việc bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm với số tiền 240 triệu đồng, bị cáo đã bồi thường 222 triệu đồng. Số tiền còn lại là 18 triệu đồng, bị cáo tiếp tục bồi thường ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Mai Văn T phải chịu 200.000đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 900.000 đồng (chín trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

- Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2018/HSST ngày 14/06/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:86/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về