Bản án 86/2018/HS-ST ngày 09/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 86/2018/HS-ST NGÀY 09/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 87/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2018/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Lò Thị D, sinh năm 1988 tại Điện Biên; Tên gọi khác: Không. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Đội 18, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Lớp 7/12.

Dân tộc: Thái; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam

Con ông: Lò Văn T, đã chết; con bà Lường Thị H, sinh năm 1969.

Bị cáo có chồng Tòng Văn D, sinh năm 1980 đã ly hôn và có bốn con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo tại ngoại theo Quyết định bảo lĩnh số 09 ngày 23/10/2017 của Cơ quanCảnh sát điều tra Công an huyện Đ, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụán được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 23/10/2017, Lò Thị D từ nhà ở đội18, xã T, huyện Đ đi bộ ra đầu đội 18, xã T tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đến nơi bị cáo gặp và mua được ma túy của một người đàn ông dân tộc Kinh khoảng 35 tuổi bị cáo không rõ lai lịch. Số ma túy bị cáo mua được là 24viên Methamphetamine và một gói Heroine với giá 1.500.000 đồng. Mua được ma túy bị cáo nhặt một lọ nhựa ở ven đường rồi cho 19 viên Methamphetamine vào trong lọ, số viên Methamphetamine còn lại bị cáo gói lại như cũ rồi cầm tất cả số ma túy vừa mua được đi bộ về nhà. Hồi 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi bị cáo vừa đi về đến cửa nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Đ kiểm tra thu giữ ở tay phải bị cáo 01 gói nhỏ Heroine được gói bằng xanh, 01 gói ni lông màu hồng chứa 05 viên Methamphetamine và 01 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu đỏ chứa 19 viên Methamphetamine.

Cáo trạng số 34/CT-VKSĐB ngày 17/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Lò Thị D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản1 Điều 194/BLHS năm 1999.

Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 3 Điều 7; Điểm n, s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999. Tuyên phạt bị cáo Lò Thị D từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xử lý vật chứng. Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa XIV về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo Lò Thị D phải chịu án phí HSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nhƣ sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ,

Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ phạm tội:

Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 11 giờ 45 phút ngày 23/10/2017bút lục 01, 02, người bị bắt Lò Thị D công nhận đã bị cơ quan Công an bắt quả tang thu giữ 01 gói bằng ni lông màu xanh, mở bên trong có chứa các cục bột màu trắng nghi là Heroine; một gói bằng ni lông màu hồng, bên trong có chứa 05 viên nén màu hồng; một túi ni lông màu trắng, bên trong có chứa 19 viên nén màuhồng; một lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu đỏ. Vật chứng bị thu giữ bị cáo LòThị D khai và thừa nhận là của bị cáo.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 18 giờ 30 phút ngày 23/10/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ bút lục số 04, 05 thì khối lượng vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Lò Thị D là 2,83 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,08 gam; khối lượng 24 viên ma túy tổng hợp là 2,4 gam, trích mẫu gửi giám định 0,2 gam.

Kết luận giám định số 82/GĐ-PC54 ngày 14/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên bút lục số 33 thì mẫu chất bột màu trắng đục gửi giám định của Lò Thị D là Heroine. Mẫu viên nén màu hồng gửi giám định của Lò Thị D là Methamphetamine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 20, danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ; Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 67, danh mục II. Không hoàn lại mẫu vật sau giám định.

Kết luận giám định pháp y về sự có thai số 83/GĐ-PY ngày 25/10/2017 của Trung tâm Pháp y tỉnh Điện Biên kết luận Lò Thị D đang có thai trong buồng tử cung, tuổi thai khoảng 4 tuần.

Các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, hỏi cung bị can của Lò Thị D từ bút lục số 47 đến 59 chứng minh bị cáo Lò Thị D đã tàng trữ trái phép 2,83 gam Heroine và 2,4 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo thừa nhận đã mua số ma túy của một người đàn ông dân tộc Kinh khoảng 35 tuổi bị cáo không biết rõ lai lịch với giá 1.500.000 đồng để sử dụng.

Bản Kết luận điều tra số 23/KLĐT ngày 27/12/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ kết luận chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đưa bị can Lò Thị D ra truy tố công khai trước pháp luật về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy bị cáo Lò Thị D có tội, bị cáo đã mua ma túy là Heroine và Methamphetamine tàng trữ mục đích để sử dụng cho bản thân bị cáo. Chứng cứ xác định bị cáo đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại Điều 194/BLHS năm 1999 và hướng dẫn ở điểm a tiểu mục3.1 mục 3 phần II Thông tư liên tịch số 17/2007 ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Lò Thị D có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

[3] Về tính chất mức độ phạm tội:

Khối lượng ma túy bị thu giữ của Lò Thị D là 2,83 gam Heroine và 2,4 gam Methamphetamine. Như vậy các bị cáo đã tàng trữ hai chất ma túy và việc xác định tổng tỷ lệ phần trăm theo tinh thần hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 như sau:

So sánh 2,83 gam Heroine với 5 gam Heroine tối thiểu ở khoản 2 của Điều194/BLHS năm 1999 bằng 56,6%.

So sánh 2,4 gam Methamphetamine với 20 gam ma túy ở thể rắn tối thiểu ở khoản 2 của Điều 194/BLHS năm 1999 bằng 12%.

Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của cả hai chất Heroine, Methamphetamine là 56,6% + 12% = 68,6% dưới 100%.

Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy mà bị cáo tàng trữ dưới 100% . Hội đồng xét xử áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội quyđịnh tại điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 củaQuốc Hội khóa XIV và khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015 để xét xử bị cáo theo quy định của Điều 194/BLHS năm 1999. Tính chất mức độ phạm tội của   bị cáo là nghiêm trọng và bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194/BLHS năm 1999 có khung hình phạt từ 02 đến07 năm tù.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo sinh ra và lớn lên ở xã T, huyện Đ, là người phụ nữ dân tộc Thái bị cáo không tu dưỡng rèn luyện bản thân mà nghiện ma túy từ năm 2016. Đây là nguyênnhân chính mà bị cáo thực hiện hành vi phạm tội để phải nhận một bản án không đáng có trong đời. Bị cáo Lò Thị D không có tình tiết tăng nặng nào, quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội củamình, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian đang có thai nhi 4 tuần tuổi.

Nhận định trên đây là cơ sở để chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm n, s khoản1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhưng vẫn phải nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cố gắng cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Theo khoản 5 Điều 194/BLHS năm 1999 quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, tài sản trong gia đình không có gì giá trị, bị cáo không giữ chức vụ gì trong xã hội, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Lò Thị D.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với nguồn gốc số ma túy bị thu giữ bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Kinh, khoảng 35 tuổi bị cáo không biết rõ lai lịch . Quá trình điều tra không có cơ sở để làm rõ đối tượng theo lời khai của bị cáo. Hội đồng xét xử không xem xét.

Vật chứng của vụ án là 2,83 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,08 gam không hoàn lại mẫu vật; 2,4 gam Methamphetamine, trích mẫu gửi giám định 0,2 gam không hoàn lại mẫu vật; 01 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu đỏ. Toàn bộ vật chứng này tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. 

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999; Điểm h khoản2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa XIV; Khoản 3 Điều 7; Điểm n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Thị D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Xử phạt bị cáo Lò Thị D 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy 2,83 gam hêrôin trích mẫu gửi giám định 0,08 gam không hoàn lại mẫu vật; Tịch thu tiêu hủy 2,4 gam Methamphetamine trích mẫu gửi giám định 0,2 gam không hoàn lại mẫu vật. Vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng hồi 14 giờ 30 phút ngày 19/01/2018 giữa Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu đỏ có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng hồi 14 giờ 30 phút ngày 19/01/2018 giữa Côngan huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.

2. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Lò Thị D phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 09/3/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2018/HS-ST ngày 09/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về