Bản án 85/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 85/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 71/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 366/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1/ Bị cáo thứ nhất:

Họ và tên: Nguyễn Văn T (Tý); sinh năm: 1993; nơi cư trú: Ấp T Đ, xã Lý Văn L, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Cha:

Nguyễn Văn S (đã chết); mẹ: Nguyễn Thị H; Vợ: Cao Ca Th, con: 01 người;

Tiền án: 03. (1)Tại Bản án số 141/2013/HSST ngày 21/5/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b,p khoản 1 Điều 46; tuyên 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; chấp hành xong ngày 22/9/2013. (2)Tại Bản án số 144/2014/HSST ngày 27/6/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 136; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, “tái phạm”. Tuyên 05 năm tù về tội cướp giật tài sản. (3)Tại Bản án số 51/2015/HSST ngày 19/3/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 “Tái phạm”, Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt tù của bản án số 144/2014/HSST ngày 27/6/2014, buộc bị cáo T chấp hành 07 năm 06 tháng tù; chấp hành xong ngày 16/02/2020. Đến ngày 05/8/2020 chưa xóa án tích tiếp tục phạm tội.

Tiền sự: 01. Ngày 01/9/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng. Quyết định tạm đình chỉ quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính vào ngày 23/12/2020.

Nhân thân: Năm 2008 bị đưa vào trường giáo dưỡng 12 tháng về hành vi trộm cắp tài sản; chấp hành xong ngày 02/9/2009. Ngày 17/12/2009 bị đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản; chấp hành xong ngày 24/3/2012;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/12/2020 đến nay (Có mặt).

2/ Bị cáo thứ hai:

Họ và tên: Trần Văn N; sinh năm: 1994; nơi cư trú: Khóm 3, phường 9, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn T2 và con bà Nguyễn Thị H; Vợ, con chưa có; tiền án: Không;

Tiền sự: 01. Ngày 01/9/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng. Quyết định tạm đình chỉ quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính vào ngày 23/12/2020.

Nhân thân: Tại Bản án số 217/2012/HSST ngày 04/10/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 06 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; chấp hành xong tại trại giam Cái Tàu ngày 23/3/2016. Án phí hình sự, án phí dân sự chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/12/2020 đến nay (Có mặt).

Bị hại:

1. Ông Châu Minh Th, sinh năm 1982. (Vắng mặt) Địa chỉ: Khóm 5, Phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

2. Ông Lưu Thanh T1, sinh năm 1985. (Vắng mặt) Địa chỉ: Phường 1, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 04/8/2020, Trần Văn N điều khiển xe mô tô biển số 94P1-5514 đến nhà của Nguyễn Văn T ở ấp Thạnh Điền, xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau rủ đi tìm tài sản trộm cắp bán kiếm tiền mua ma túy và được T đồng ý. Cả hai chạy xe đến phường 1 thành phố Cà Mau nhìn thấy nhà của ông Lưu Thanh T1 cửa nhà khép hờ không khóa nên cả hai lén lút vào trong, N lấy trộm 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J2 rồi ra xe ngồi đợi, còn T lấy trộm 01 chiếc điện thoại Nokia 6100 màu xám, 01 chiếc điện thoại Nokia 6100 màu đen và 01 cái bóp có số tiền 170.000đ, sau đó cả hai chở nhau về hướng xã Lý Văn Lâm.

Khi đến Cống Hội đồng nguyên thấy Công an tuần tra, sợ phát hiện nên ném bỏ hết tài sản trộm được.

Tại kết luận định giá tài sản số 89/KL-HĐĐG ngày 31/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Cà Mau như sau:

Thời điểm tháng 8/2020 + 01 chiếc điện thoại hiệu Samsung Galaxy J2, màu hồng; giá trị còn 75%, đã qua sử dụng là: 4.000.000đ x 75% = 3.000.000đ;

+ 01 chiếc điện thoại Nokia 6100, máu xám; giá trị còn 85%, đã qua sử dụng là: 300.000đ x 85% = 255.000đ;

+ 01 chiếc điện thoại Nokia 6100, máu đen; giá trị còn 85%, đã qua sử dụng là: 300.000đ x 85% = 255.000đ;

Tổng cộng: 3.510.000đ. (Ba triệu năm trăm mười ngàn đồng) Quá trình điều tra, bị cáo Trần Văn N khai nhận trước đó đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như sau: Khoảng 03 giờ ngày 17/7/2020 Trần Văn N đi bộ một mình từ phường 9 thành phố Cà Mau đến nhà của ông Châu Minh Th ở Khóm 5, Phường 7, thành phố Cà Mau thấy cửa nhà khép hờ không khóa nên nảy sinh ý định vào nhà trộm cắp tài sản. N lén lút đi vào trong nhà lấy 01 chiếc điện thoại hiệu Samsung Galaxy J7 màu xám và 01 chiếc điện thoại hiệu Sony Z5, màu xám đen đang sạc trên kệ tivi, bỏ vào túi quần rồi chạy về nhà ở Phường 9, thành phố Cà Mau. Khi về đến nhà phát hiện đã rơi mất 02 chiếc điện thoại vừa trộm được. Qua trích xuất camera xác định đối tượng là Trần Văn N lén lút vào nhà ông Th trộm 02 chiếc điện thoại di động trên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 92/KL-HĐĐG ngày 18/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Thành phố Cà Mau như sau: Thời điểm tháng 7/2020 + 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, màu xám; giá trị còn 75%, đã qua sử dụng là: 6.000.000đ x 75% = 4.500.000đ;

+ 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sony Z5 màu xám đen; giá trị còn 62,5%, đã qua sử dụng là: 3.900.000đ x 62,5% = 2.437.500 đ.

Tổng cộng: 6.937.500đ. (Sáu triệu chín trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm đồng).

Ngoài ra, bị cáo N còn khai nhận vào khoảng 03 giờ ngày 04/8/2020, bị cáo đi bộ một mình đến nhà bà Trần Thị Linh tại khóm 7, phường 8, thành phố Cà Mau, N lén vào nhà bà Linh thấy trên tường có treo 01 cái túi xách của bà Nguyễn Thị Sum, sinh năm 1966 (là mẹ của bà Linh), N lục túi xách và lấy trộm 01 chiếc lắc bằng kim loại màu vàng, 01 chiếc vòng bằng kim loại màu vàng, 01 sợi dây chuyền màu vàng, cùng số tiền 200.000 đồng. N đến tiệm vàng Thu Năm tại khóm 3 phường 7, thành phố Cà Mau bán thì biết đó là vàng giả nên N ném bỏ, số tiền trộm được N đã dùng mua ma túy sử dụng. Quá trình điều tra, do bà Sum không có địa phương, đi làm thuê nhiều nơi, không xác định địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để định giá số tài sản của bà Sum bị N lấy trộm.

Tại Cáo trạng số 78/CT-VKS ngày 12/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và bị cáo Trần Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đồng thời đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS; điểm h, s khoản 1 Điều 51 BLHS; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 03 năm đến 04 năm tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173 BLHS; điểm h, s Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS; xử phạt bị cáo Trần Văn N 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về trách nhiệm dân sự, bị hại ông Th, ông T1 không yêu cầu nên không đặt ra xem xét. Về vật chứng là chiếc xe máy biển số 94P1-5514, là phương tiện phạm tội đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với bị cáo T và N đều thừa nhận hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như Cáo trạng đã nêu, không oan sai và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng.

Đối với sự vắng mặt của người bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy trong hồ sơ đã có lời khai của các bị hại, việc vắng mặt của các bị hại tại phiên tòa không ảnh hưởng đến nội dung xét xử vụ án nên căn cứ theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại theo quy định.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Văn N khai nhận: Vào khoảng 23 giờ 50 phút ngày 04 tháng 8 năm 2020, bị cáo N rủ bị cáo T đi trộm cắp tài sản và được T đồng ý. Lợi dụng sơ hở của ông Lưu Thanh T1, hai bị cáo đã lén lút vào nhà ông T1 ở Phường 1, thành phố Cà Mau, thực hiện hành vi chiếm đoạt các tài sản gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2, màu hồng;

01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 6100, màu xám; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 6100, màu đen; 01 cái bóp da có số tiền 170.000đ. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt của bị hại T1 là 3.680.000đ.

Đồng thời bị cáo Trần Văn N còn thừa nhận vào khoảng 03 giờ ngày 17/7/2020, bị cáo N lén lút vào nhà ông Châu Minh Th ở Khóm 5, Phường 7, thành phố Cà Mau, thực hiện hành vi chiếm đoạt các tài sản gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu xám và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sony Z5 màu xám đen. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt của bị hại Th là 6.937.500đ.

Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, cùng các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Bị cáo Nguyễn Văn T đã bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” tại bản án số 51/2015/HSST ngày 19/3/2015, thuộc trường hợp “Tái phạm”, chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội. Do đó, bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự, bị cáo Trần Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Văn N là nguy hiểm cho xã hội. Khi phạm tội, các bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, là vi phạm pháp luật, phải bị pháp luật xử lý nghiêm. Các bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có tiền sự, ngoài ra bị cáo T có thêm nhiều tiền án. Chỉ vì xem thường pháp luật, lười lao động nhưng muốn có tiền để tiêu xài cá nhân, các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, mà còn gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh địa phương. Với tính chất, mức độ thực hiện phạm tội của các bị cáo, cần phải xử phạt các bị cáo mức án nghiêm, áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống bình thường của xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, đồng thời cũng để phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Văn N; và áp dụng thêm tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 đối với bị cáo Trần Văn N là có cơ sở.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét các bị cáo phạm tội chiếm đoạt tài sản giá trị không lớn, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo T và N được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo Trần Văn N đã thực hiện 02 lần chiếm đoạt tài sản của bị hại T1 và bị hại Th, cả 02 lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do đó, bị cáo N bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Nguyễn Văn T có nhiều tiền án, chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, đã được áp dụng là tình tiết định khung hình phạt, bị cáo T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản của bà Nguyễn Thị Sum, do quá trình điều tra chưa làm việc được với bị hại, không chứng minh được hành vi phạm tội của N nên không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[5] Về vật chứng: 01 chiếc xe môtô, biển số 94P1-5514, tên đăng ký là Trương Thành L. Quá trình điều tra xác định ông Long đã bán xe, và bị cáo N khai đã mua xe từ một người lạ để sử dụng. Xét thấy đây là tài sản không phải do hành vi vi phạm pháp luật mà có được; đồng thời là phương tiện mà T và N dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Lưu Thanh T1 và ông Châu Minh Th không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T (Tý) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T (Tý) 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 23/12/2020.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Văn N 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 23/12/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe môtô, biển số 94P1-5514, đã qua sử dụng (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/5/2021 giữa Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc Nguyễn Văn T và Trần Văn N, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:85/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về