Bản án 85/2021/HNGĐ-ST ngày 26/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 85/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 26 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 851/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXX-ST ngày 22 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

 1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 1990; nơi cư trú: ấp M, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt

2. Bị đơn: Ông Lê Hồng K, sinh năm 1982; nơi cư trú: ấp L, xã G, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D trình bày: Bà và ông Lê Hồng K tự nguyện chung sống với nhau năm 2011, hôn nhân do mai mối, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L sống hạnh phúc được 06 năm thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, không có tiếng nói chung. Bà và ông K ly thân từ năm 2017 đến nay, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nay bà Nguyễn Thị Mỹ D xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu ly hôn với ông Lê Hồng K.

Về con chung: Bà và ông Lê Hồng K có 01 (một) con chung tên con chung tên Lê Hồng M, sinh ngày 25/02/2012. Hiện cháu M do bà D chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà D yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu M; không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Lê Hồng K đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông K vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu như đã trình bày.

 Bị đơn, ông Lê Hồng K vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Mỹ D đối với ông Lê Hồng K Bà Nguyễn Thị Mỹ D được tiếp tục chăm spcs, nuôi dưỡng con chung tên Lê Hồng M, sinh ngày 25/02/2012, ông Lê Hồng K không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do ông Lê Hồng K đang cư trú tại xã G, huyện C, tỉnh An Giang nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2]. Về quan hệ pháp luật: Bà Nguyễn Thị Mỹ D khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lê Hồng K, yêu cầu được nuôi con chung. Đây là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án thụ lý quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

[3]. Về tư cách, sự vắng mặt của đương sự: Căn cứ Điều 68 Bộ luật tố tụng xác định nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D, bị đơn ông Lê Hồng K.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Lê Hồng K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa hôm nay. Do đó, căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông K.

* Về nội dung:

[4].Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông K tự nguyện sống chung với nhau năm 2011, đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 164 ngày 27/7/2011 do Ủy ban nhân dân xã G, huyện C, tỉnh An Giang cấp cho bà D, ông K. Vì vậy, hôn nhân giữa bà D và ông K là hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Quá trình chung sống, bà và ông K bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, ông K không quan tâm đến vợ con, bà và ông K không còn sống chung từ năm 2017 đến nay, ông K không tới lui hàn gắn tình cảm và chăm sóc con chung; bà D nộp đơn khởi kiện ly hôn Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông K không đến Tòa án để làm việc, thể hiện ông K không mong muốn hàn gắn tình cảm với bà D.

Căn cứ lời khai của nguyên đơn, chứng cứ trong hồ sơ, thể hiện giữa Bà D, ông K không còn tình cảm, ông, bà đã ly thân trong thời gian dài, không liên lạc với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa, bà D xác định tình cảm không còn. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà D là có căn cứ nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D.

[5]. Về quan hệ con chung: Bà D, ông K có 01 (một) con chung tên Lê Hồng M, sinh ngày 25/02/2012. Hiện cháu M do bà D chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà D yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Hiện nay cháu M đã sống ổn định với bà D. Bà D yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, ông K cũng không có ý kiến phản đối, cháu M cũng có nguyện vọng sống với bà D. Tại biên bản xác minh ngày 16/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thì cháu M sống với bà D phát triển tốt về tinh thần và thể chất, nhà bà D gần trường học, trạm y tế, đảm bảo về việc học hành cũng như chăm sóc sức khỏe cho cháu M. Do đó, có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà D là được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu M.

[6]. Về tài sản chung: Bà D không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết [7]. Về nợ chung: Bà D không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[8]. Từ những cơ sở phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về quan điểm giải quyết án.

[9]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Mỹ D phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điếm a khoản 1 Điều 39, Điều 68, khoản 4 Điều 147; Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự - Căn cứ vào Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình:

 - Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Mỹ D Giấy chứng nhận kết hôn số 164 ngày 27 tháng 7 năm 2011 do Ủy ban nhân dân xã G, huyện C, tỉnh An Giang cấp cho bà Nguyễn Thị Mỹ D và ông Lê Hồng K không còn giá trị pháp lý.

Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Thị Mỹ D được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 01 (một) con chung tên Lê Hồng M, sinh ngày 25/02/2012. Ông Lê Hồng K không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Nguyễn Thị Mỹ D cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Lê Hồng K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Mỹ D phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0013779 ngày 29 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Bà D đã nộp đủ.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng ông K vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2021/HNGĐ-ST ngày 26/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:85/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về