Bản án 85/2019/HNGĐ-ST ngày 11/12/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 85/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/12/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 11 tháng 12 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 278/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 74/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn ANB, xã BH, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở hiện nay: Thôn H, xã TL, huyện T1, tỉnh Thái Bình (có mặt).

- Bị đơn: Anh Lê Văn K, sinh năm 1991.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn ANB, xã BH, huyện T1, tỉnh Thái Bình (vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị và anh Lê Văn K sinh năm 1991có hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay tại thôn ANB, xã BH, huyện T1, tỉnh Thái Bình tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 09/10/2017 được Uỷ ban nhân dân xã BH, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng khác biệt về quan điểm sống, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau nên cuộc sống không hạnh phúc. Anh chị sống ly thân từ đầu tháng 9/2019, chị đã chuyển về nhà ngoại sinh sống. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Văn K.

Về con chung, chị và anh K có 01 con chung là Lê Yến N, sinh ngày 23/6/2018, hiện tại con Lê Yến N đang ở với anh K. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Yến N. Chị không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung, theo chị H, trong quá trình chung sống anh chị có tài sản chung bao gồm: 10 chỉ vàng 24K 9999 (bao gồm 05 chỉ vàng hồi môn do bố mẹ chị H cho, 04 chỉ vàng do bên nhà nội trao cho và 01 chỉ là do khi sinh đẻ, chị được 02 bên nội ngoại cho tiền sau đó chị mua vàng để dành). 02 sổ tiết kiệm trị giá 58 triệu đồng (01 sổ 13 triệu, 01 sổ 45 triệu). Sổ 13 triệu chị H đã rút ngày 07/11/2019, cả gốc và lãi là 13.011.000 đồng. Sổ 45 triệu chị H rút ngày 24/10/2019, cả gốc và lãi là 48.060.000 đồng. Ngoài ra không còn tài sản chung nào khác.

Về nợ chung: Khoảng cuối tháng 6/2019 con gái chị ốm đi viện, lúc đấy do chị không có tiền mặt nên đã vay tạm chị họ là chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1995. Địa chỉ: Thôn T2, xã TL, T1 số tiền là 3.000.000 đồng để đi chữa bệnh cho con. Việc chị vay tiền của chị M thì anh K có biết. Số tiền vay chị M 3.000.000 đồng, sau khi rút sổ tiết kiệm 45 triệu thì tôi đã thanh toán cho chị M vào ngày 24/10/2019.

Chị H xác định tài sản chung của vợ chồng hiện nay là: 10 chỉ vàng 24k9999 (giá thị trường hiện nay tương đương 41.000.000 đồng) và số tiền 58.071.000 đồng. Số tài sản này hiện nay chị đang quản lý. Chị đề nghị Tòa án chia đôi số tài sản của vợ chồng chị.

Tại bản tự khai, biên bản công khai chứng cứ và hòa giải ngày 24/10/2019, bị đơn là anh Lê Văn K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh K nhất trí với lời trình bày của chị Nguyễn Thị H về thời gian chung sống kết hôn. Quá trình chung sống và nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là đúng. Anh xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị H đã căng thẳng, tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng ly thân và chị H đã về nhà ngoại sinh sống, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể đoàn tụ được với nhau nên anh đồng ý ly hôn, đề nghị Toà án giải quyết cho anh chị sớm được ly hôn.

Về quan hệ con chung: Anh và chị H có 01 con chung là Lê Yến N, sinh ngày 23/6/2018, hiện tại con Lê Yến N đang ở với anh. Ly hôn anh đề nghị Tòa án giao con chung cho anh được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về quan hệ tài sản chung: Tại Biên bản hòa giải anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, tại bản tự khai anh K đề nghị Tòa án chia đôi số tài sản của anh chị hiện do chị H quản lý gồm: 01 cây vàng và 02 thẻ tiết kiệm với tổng số tiền trong hai thẻ là 58 triệu đồng, chưa tính lãi suất.

Ngày 07/11/2019, Tòa án mở phiên hòa giải lần 2 giữa anh K và chị H, chị H đến Tòa án, anh K không đến. Tại phiên hòa giải, chị H có đơn đề nghị chia tài sản chung của vợ chồng. Ngày 27/11/2019, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án, chị H đến phiên tòa, anh K không đến phiên tòa, căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, phiên tòa được mở lại vào ngày 11/12/2019.

Tại phiên tòa hôm nay, anh K vắng mặt lần thứ hai không có lý do, chị H vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn anh K, về con chung đề nghị Tòa án giao con chung Lê Yến N cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung, chị H đề nghị Tòa án chia đôi số tài sản chung của vợ chồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H có mặt, bị đơn là anh Lê Văn K vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Lê Văn K.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Nguyễn Thị H và anh Lê Văn K kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của chị H cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng khác biệt về quan điểm sống, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau nên cuộc sống không hạnh phúc. Anh chị sống ly thân từ đầu tháng 9/2019, chị đã chuyển về nhà ngoại sinh sống. Nay chị H có đơn xin ly hôn, anh K đồng ý. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa anh K và chị H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xét xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Lê Văn K là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung:

[3.1] Chị H và anh K có 01 con chung là Lê Yến N, sinh ngày 23/6/2018. Chị H có nguyện vọng nuôi con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng; anh K cũng có nguyện vọng nuôi con chung, không yêu cầu chị H cấp dưỡng.

[3.2] Xét nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của chị H thì thấy chị H làm công nhân may tại Xưởng may quần Jeans AD, địa chỉ tại xóm x, thôn TP, xã TA, huyện T1, thu nhập hàng tháng ổn định. Hiện nay chị đang ở nhà bố mẹ đẻ tại thôn H, xã TL, huyện T1. Bố mẹ chị đồng ý cho mẹ con chị ở cùng và sẽ cùng chị chăm sóc cháu Lê Yến N.

[3.3] Anh K cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con, hiện nay anh đang sinh sống và làm việc cùng gia đình tại thôn ANB, xã BH, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Anh K cũng có công việc ổn định nên cũng có điều kiện chăm sóc, giáo dục con chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy chị H có điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con chung tốt hơn anh K bởi lẽ, cháu Lê Yến N là con gái, dưới 36 tháng tuổi. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt và điều kiện tốt nhất cho con cần giao con chung Lê Yến N, sinh ngày 23/6/2018 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng; anh Lê Văn K không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị H, anh K có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu là phù hợp với các quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Anh K, chị H đều xác định vợ chồng có khối tài sản chung chị H đang quản lý là 10 chỉ vàng 24k9999 và 58 triệu tiền gửi tiết kiệm chưa tính lãi. Theo chị H, 10 chỉ vàng 24k9999 giá thị trường hiện nay tương đương 41.000.000 đồng. Còn số tiền 58 triệu gửi tiết kiệm, chị đã rút về được tổng cả gốc và lãi là 61.071.000 đồng. Tuy nhiên, khi con ốm chị có vay của chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1995. Địa chỉ: Thôn T2, xã TL, T1 số tiền là 3.000.000 đồng để đi chữa bệnh cho con. Theo chị H, việc chị vay tiền của chị M thì anh K có biết. Mặc dù anh K không đến Tòa án, chưa có ý kiến về việc vay tiền này song xác định việc vay mượn là có thật nên xác định đây là nợ chung của vợ chồng. Số tiền vay chị M chị H đã thanh toán cho chị M vào ngày 24/10/2019. Như vậy, tổng số tài sản chung của anh K và chị H còn lại là 58.071.000 đồng + 41.000.000 đồng = 99.071.000 đồng; cần chia đôi số tài sản chung của vợ chồng, anh K và chị H mỗi người được 1/2 = 49.535.500 đồng.

[5] Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh K và chị H mỗi người phải chịu (49.535.500 x 5%) = 2.476.800 đồng án phí chia tài tài sản chung khi ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Lê Văn K.

2. Về con chung:

Giao con chung Lê Yến N, sinh ngày 23/6/2018 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh Lê Văn K không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị H. Anh K có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

3. Về tài sản chung:

Chị Nguyễn Thị H phải thanh toán một lần cho anh Lê Văn K số tiền 49.535.500 đồng (Bốn mươi chín triệu năm trăm ba mươi lăm nghìn năm trăm đồng).

4. Về án phí:

Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 2.476.800 đồng án phí chia tài tài sản, khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn chị H đã nộp theo Biên lai số 0009304 ngày 23/10/2019 và 2.493.000 đồng tạm ứng án phí chia tài sản chị H đã nộp theo Biên lai số 0009311 ngày 08/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình. Trả lại cho chị Nguyễn Thị H 16.200 đồng án phí.

Bị đơn là anh Lê Văn K phải nộp 2.476.800 đồng án phí chia tài tài sản.

5. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H, có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 11/12/2019; bị đơn là anh Lê Văn K vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2019/HNGĐ-ST ngày 11/12/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:85/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về