Bản án 85/2018/HNGĐ-ST ngày 17/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 85/2018/ HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự đã thụ lý số: 110/2018/TLST-HNGĐ ngày 12/4/2018 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 252/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/6/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 148/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26/6/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Tạ Thị Diễm H, sinh 1996 (có mặt).

Địa chỉ: ấp V, xã V, huyện V, thành phố Cần Thơ.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn S, sinh 1986 (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp T, thị trấn N, huyện T, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn chị Tạ Thị Diễm H trình bày: Chị với anh Nguyễn Văn S chung sống với nhau từ năm 2014, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc có 01 con chung tên Nguyễn Gia B, sinh ngày 27/7/2016. Nhưng đến năm 2016 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, nguyên nhân do vợ chồng thường xuyên cải nhau. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn và kéo dài nên chị xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn S.

Về quan hệ con chung chị tự nguyện giao cho anh Nguyễn Văn S chăm sóc, nuôi dưỡng. Về tài sản và nợ chung không có chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn S: Kể từ khi thụ lý vụ án Tòa án đã thông báo và tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh S đã vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Bị đơn anh Nguyễn Văn S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử thấy, có căn cứ áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, xét xử vắng mặt anh S.

[2] Do mai mối và được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới, năm 2014 chị Tạ Thị Diễm H với anh Nguyễn Văn S tự nguyện chung sống với nhau, được Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện T, số: 165 ngày 07/11/2014. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3] Xét yêu cầu của chị Tạ Thị Diễm H, thấy: Vợ chồng chị H và anh S chung sống với nhau, có thời gian hạnh phúc và đã có con chung; tuy nhiên, chỉ trong thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng nên đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay; kể từ khi sống ly thân đến nay chị H với anh S không gặp nhau, không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau. Ngoài lời trình bày của chị H, điều này còn được thể hiện, kể từ khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành thông báo hòa giải nhằm mục đích động viên, hàn gắn nhưng anh S đã vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện nguyện vọng muốn được hàn gắn quan hệ vợ chồng với chị H để xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con chung. Căn cứ Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy, tình nghĩa vợ chồng giữa chị Tạ Thị Diễm H với anh Nguyễn Văn S không còn, tình trạng hôn nhân đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Tạ Thị Diễm H.

[4] Xét về quan hệ con chung, thấy: Cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 27/7/2016 hiện đang được anh Nguyễn Văn S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, tại phiên tòa hôm nay chị H không yêu cầu nuôi con và tự nguyện giao cháu B cho anh S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy, để ổn định cuộc sống và đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu B, căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Nguyễn Gia B cho anh S tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

[5] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chị Tạ Thị Diễm H là nguyên đơn nên phải chịu án phí theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu của chị Tạ Thị Diễm H.

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Tạ Thị Diễm H ly hôn với anh Nguyễn Văn S.

Về quan hệ con chung:

- Giao con chung tên Nguyễn Gia B, sinh ngày 27/7/2016 (hiện đang sống với anh Nguyễn Văn S) cho anh Nguyễn Văn S trực tiếp, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Chị Tạ Thị Diễm H có nghĩa vụ tôn trọng quyền của cháu B được sống chung với anh S và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, anh S không được cản trở.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Tạ Thị Diễm H chịu 300.000 đồng, được trừ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001068 ngày 12/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Chị Tạ Thị Diễm H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tuyên án; anh Nguyễn Văn S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện T, tỉnh An Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2018/HNGĐ-ST ngày 17/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:85/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về