Bản án 84/2020/HS-ST ngày 22/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 84/2020/HS-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 7 năm 2020, tại phòng Xử án Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2020/HSST ngày 11 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/QĐXXST-HS ngày 25/6/2020, đối với bị cáo họ và tên:

Đỗ Tấn P; tên gọi khác: /; giới tính: Nam; sinh năm 1995 tại tỉnh Bình Thuận; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm S, thôn P, xã H, huyện B, tỉnh Bình Thuận; nơi cư trú: Số 115/1/32A đường H, Phường A, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nhân viên thiết kế nội thất; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đỗ Thanh H và bà Trần Thị H; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/10/2019 đến ngày 11/10/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Công ty TNHH M; địa chỉ trụ sở: Số 14 đường N, Khu C, Khu phố M, phường T, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh;

- 1 - Người đại diện hợp pháp: Ông Hà Xuân B, sinh năm 1979; địa chỉ: B64 Khu C, phường T, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh; là người đại diện theo pháp luật.

- Ông Võ Trường T, sinh năm 1992; địa chỉ: Số 174 đường L, Phường D, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Dương Sơn H, sinh năm 1991; địa chỉ: Số 26/54 đường B, phường E, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Đinh Trịnh Kiều T sinh năm 1997; địa chỉ: Số 115/1/32A đường H, Phường A, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bà Đinh Trịnh Hoài P, sinh năm 1999; địa chỉ: Số 115/1/32A đường H, Phường A, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Trần Thiên T, sinh năm 1994; địa chỉ: Số 01 đường P, thị trấn Y, huyện B, tỉnh Bình Thuận.

- Ông Trần Xuân T sinh năm 1989; địa chỉ: Số 32 đường K, phường C, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Công ty Cổ phần H; địa chỉ: Số 264 A2, đường Đ, Phường X, quận U, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Tấn P nguyên là nhân viên của bộ phận thiết kế nội thất của Công ty M. Trong quá trình làm việc P xảy ra mâu thuẫn với anh Võ Nguyễn Trường T nên nghỉ việc. Sau khi nghỉ việc, P nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của Tiến và của Công ty M để bán lấy tiền tiêu xài. P đã chuẩn bị 01 cái túi nylon lớn màu trắng đỏ, 01 đoạn dây dù dài khoảng 02 mét và 01 cái balo màu xám có in chữ Simple Carry. Đến tối ngày 05/9/2019, P điều khiển xe mô tô hiệu SYM Joyride màu đỏ đen, biển số 55Y2–0582 đi từ phòng trọ địa chỉ: Số 115/1/32A đường H, Phường A, quận V đến Công ty M. Khi đến Công ty M, P đậu xe mô tô bên ngoài hàng rào Ban quản lý khu Nam và trèo rào vào bên trong. P sử dụng thang chui qua lỗ thông gió của nhà vệ sinh nam vào Công ty M. Khi đột nhập vào công ty, P đi vào trong phòng làm việc của anh B - Giám đốc công ty, lấy trộm 01 cái laptop hiệu Vaio core i7 màu vàng đồng và cục sạc pin của máy, lấy trộm 01 cái máy laptop hiệu Dell màu vàng đồng và cục sạc pin của chị P - Phó giám đốc công ty, lấy trộm 01 laptop hiệu HP màu xám và cục sạc máy của anh Q; 01 cái máy tính bảng hiệu Samsung màu vàng đồng của anh V; 01 cái Macbook Pro màu bạc và cục sạc pin của anh T. Sau đó, P bỏ tất cả tài sản vừa lấy trộm được vào balo màu xám. P tiếp tục lấy trộm 01 bộ CPU (gồm: ổ cứng, bàn phím, chuột máy tính...), 02 cái màn hình LCD Dell và 01 cái ổ cứng máy tính (di động) màu đỏ, bỏ tài sản vào trong túi nylon đỏ-trắng. Lấy tất cả số tài sản đã trộm được đi ra hàng rào dựng xe mô tô điều khiển xe hướng đường Tân Phú tẩu thoát. Khi về đến phòng trọ, Phát giấu tài sản lấy trộm được ở dưới đáy tủ đựng quần áo và dưới giường ngủ của P. Đến sáng ngày 07/9/2019, P cài đặt lại máy laptop của chị P, mang laptop hiệu Dell và laptop hiệu Hp đến tiệm cầm đồ H, địa chỉ: Số 164A2 đường Đ, phường X, quận U, cầm với giá 10.000.000 đồng. Đến khoảng 05 ngày sau P sơn lại cái CPU đã lấy trộm được từ màu đen sang màu cam rồi gửi máy về cho bạn tên Trần Thiên T để nhờ T cài đặt lại Win và phần mềm. Qua truy xét, Cơ quan điều tra đã bắt giữ Phát.

Vật chứng thu giữ:

1/ Tài sản bị chiếm đoạt của Công ty M:

- 01 cái laptop hiệu Vaio core i7 màu vàng đồng, có ký hiệu Produture: VPCZ23AJ;

- 01 cái laptop hiệu Dell (V5468 Grey) i5/7200U/2X4Gb/140”/Intel HD Graphics Window 10;

- 01 cái Laptop hiệu HP Pavilion Core i37100UR4G HDD1T;

- 01 cái màn hình thiết kế 2D hiệu Dell U2414H đã qua sử dụng;

- 01 bộ CPU gồm: Bộ vi xử lý CPU intel core i7 8700, bo mạch chính B360, bộ nhớ DDR4 kingmax 16Gb, ổ cứng SSD Samsung 860EVO 250Gb, card màn hình Gigabyte RTX 2070, ổ cứng HDD WD Blue 2TB sata35400rpm, thùng máy case sarnedark Shadesk, nguồn Seasonic 750W, màn hình LCD Dell 23,8” U2417H, chuột máy tính Logitech G302, bàn phím Logitech Garminh G213;

- 01 cái máy tính bảng hiệu Samsung màu vàng đồng số IMEI: 352999/06/329359/8 đã qua sử dụng;

- 01 cục sạc pin hiệu Sony màu đen 19.5V-3,9A và dây sạc;

- 01 cục sạc pin hiệu HP màu đen code: 1707, 19.5V-3.34A và dây sạc;

- 01 cục sạc pin hiệu Dell 65W màu đen, model: HA65NS5-00, 19V-3.34A và dây sạc;

- 02 giá đỡ máy tính Dell màu bạc;

- 02 giá đỡ máy tính màu xám;

- 01 dây cáp HDMI 1.4 Kingmaster màu đen 1,5m;

- 01 dây cáp minidisplayport -> displayport.

2/ Tài sản bị chiếm đoạt của anh Võ Nguyễn Trường T:

- 01 cái Macbook Pro màu bạc có số serial: 76017 ETEATM đã qua sử dụng;

- 01 cục sạc pin Apple màu trắng 60W Model A1344 và dây sạc.

3/ Tài sản bị chiếm đoạt của anh Dương S:

- 01 cái ổ cứng máy tính (di động) màu đỏ hiệu G213 Prodigy Gaming Myboard Y-U 0029 đã qua sử dụng.

4/ Tài sản thu giữ của Đỗ Tấn P:

- 01 cái balo màu xám có in chữ Simple Carry đã qua sử dụng. Phát sử dụng đựng tài sản trộm được.

- 02 tờ hợp đồng cầm đồ số 1858/HĐCĐ có chữ ký của Đỗ Tấn P.

- 01 cái điện thoại di động Iphone 6S màu trắng hồng, số IMEI: 355693070365518 chứa 01 sim điện thoại số 0945076768.

- 01 cái điện thoại di động Iphone 8 Plus màu đen, số IMEI: 354830096916509 chứa 01 sim điện thoại số 0357130041.

- 01 chiếc xe gắn máy hiệu SYM Joyride màu đỏ, đen, biển số 55Y2 – 0582, số máy: VMVWAA-D 000390, số khung: RLGCA11AD9D000390 đã qua sử dụng. Là phương tiện Phát sử dụng để đi trộm. Qua xác minh, người đưng tên đăng ký chủ sở hữu là anh Trần Xuân T, anh T đã bán cho người một (không nhớ rõ lai lịch). Xe được chị Đinh Trịnh Hoài P mua lại, chưa làm thủ tục sang tên, hai bên có làm giấy mua bán xe (chị đã làm thất lạc); do chiếc xe mua đã lâu, chị không nhớ họ tên người bán. Việc bị cáo tự ý lấy xe, lấy nón bảo hiểm của chị làm phương tiện phạm tội chị không biết.

- 01 cái nón bảo hiểm màu xanh của chị Đinh Trịnh Hoài P bị cáo tự ý lấy sử dụng cùng chiếc xe gắn máy.

Theo Kết luận định giá tài sản số 310/KL-HĐĐGTTHS ngày 27/9/2019 của Hội đồng Định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Quận 7 đối với các tài sản gồm: “Laptop hiệu Vaio; Laptop hiệu Dell; Laptop hiệu HP; Màn hình Dell U2414; Bộ CPU; Macbook Pro; Ổ cứng; Máy tính hiệu Samsung có tổng giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 84.826.667 đồng.” Theo Kết luận định giá tài sản số 414/KL-HĐĐGTTHS ngày 03/12/2019 của Hội đồng Định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Quận 7 đối với các tài sản gồm: “Cục sạc pin hiệu Apple; cục sạc pin hiệu Sony; cục sạc pin hiệu HP; cục sạc pin hiệu Dell; dây cáp HDMI; dây cáp Minidisplayport chuyển displayport; Laptop hiệu HP; ổ cứng di dộng; giá đỡ máy tính hiệu Dell; giá đỡ máy tính màu xám có tổng giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 8.918.400 đồng.” Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì khác; có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Tấn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Bản Cáo trạng số 64/CT-VKSQ7 ngày 11/5/2020 Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 đã truy tố bị cáo Đỗ Tấn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận các hành vi phạm tội; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, bị cáo lần đầu phạm tội, đã khắc phục hậu quả, bản thân bị cáo là lao động chính cho bị cáo được hưởng án treo.

Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Tấn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

- Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo từ 02 (hai) đến 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách 05 (năm) năm.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

- Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại số tài sản bị chiếm đoạt; quá trình điều tra không có yêu cầu gì, tại phiên tòa vắng mặt nên không xét.

Đối với chị Đinh Trịnh Hoài P, là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe gắn máy hiệu SYM biển số 55Y2-0582 và chiếc nón bảo hiểm màu xanh; do ở chung nhà nên bị cáo tự ý lấy xe và nón bảo hiểm sử dụng làm phương tiện phạm tội, Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.

Đối với anh Trần Thiên T là người được P nhờ cài đặt lại Win và phần mềm. Anh T không biết tài sản P nhờ cài đặt là tài sản do phạm tội mà có và anh T cũng không hưởng lợi gì từ hành vi nêu trên, nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ đại diện Viện kiểm sát Quận 7 đề nghị tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội lần đầu, quá trình điều tra và tại phiên tòa thánh khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã khắc phục hậu quả; bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bà nội bị cáo được phong tặng Danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng; bản thân bị cáo là lao động chính, đang nuôi dưỡng cha mẹ già ở quê nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các đương sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, các Kết luận định giá tài sản số 310/KL-HĐĐGTTHS ngày 27/9/2019 và số 414/KL-HĐĐGTTHS ngày 03/12/2019 của Hội đồng Định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Quận 7, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xét có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt số tài sản có giá trị là 93.745.067 đồng. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo lần đầu phạm tội; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; đã khắc phục hậu quả, thu hồi, trả lại các tài sản chiếm đoạt; các bị hại có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; gia đình bị cáo có công với đất nước, được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương, Danh hiệu cao quý; bản thân bị cáo là lao động chính đang trực tiếp nuôi dưỡng cha mẹ già. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng; có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng; hiện là lao động chính nên không cần bắt chấp hành hình phạt tù mà cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại số tài sản bị chiếm đoạt; quá trình điều tra không có yêu cầu gì, có đơn xin bãi nại cho bị cáo; tại phiên tòa vắng mặt nên không xét.

[5] Xử lý vật chứng:

- Các tài sản bị cáo trộm cắp của các bị hại, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại là có căn cứ.

- 01 cái balo màu xám có in chữ Simple Carry, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động Iphone 6S màu trắng hồng, số IMEI: 355693070365518 chứa 01 sim điện thoại số 0945076768 và 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus màu đen, số IMEI: 354830096916509 chứa 01 sim điện thoại số 0357130041 là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vị phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với chiếc xe gắn máy hiệu SYM Joyride màu đỏ, đen, biển số 55Y2 – 0582, số máy: VMVWAA-D 000390, số khung: RLGCA11AD9D000390 và 01 cái nón bảo hiểm màu xanh đây là tài sản hợp pháp của chị P, bị cáo tự lấy sử dụng để làm phương tiện đi trộm cắp, chị P không biết nên trả lại cho chị P.

- Thu và lưu giữ vào hồ sơ vụ án 02 tờ hợp đồng cầm đồ số 1858/HĐCĐ có chữ ký của bị cáo Đỗ Tấn P; 01 dĩa DVD chứa hình ảnh phạm tội của bị cáo được trích xuất từ camera Công ty M.

[6] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Tấn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ vào Điểm c Khoản 2 Điều 173; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Đỗ Tấn P 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án là ngày 22/7/2020.

Giao bị cáo Đỗ Tấn P cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, tỉnh Bình Thuận để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án này và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

2. Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Đỗ Tấn P cho đến khi có Quyết định Thi hành án theo quy định của pháp luật.

3. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

3.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cái balo màu xám có in chữ Simple Carry.

3.2. Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động Iphone 6S màu trắng hồng, số Imei: 355693070365518 chứa 01 (một) sim điện thoại số 0945076768; 01 (một) điện thoại di động Iphone 8 Plus màu đen, số Imei: 354830096916509 chứa 01 (một) sim điện thoại số 0357130041.

3.3. Trả lại cho chị Đinh Trịnh Hoài P: Chiếc xe gắn máy hiệu SYM Joyride màu đỏ đen, biển số 55Y2 – 0582, số máy: VMVWAA-D000390, số khung: RLGCA11AD9D000390 và 01 (một) cái nón bảo hiểm màu xanh.

3.4. Thu và lưu giữ vào hồ sơ vụ án: 02 (hai) tờ hợp đồng cầm đồ số 1858/HĐCĐ có chữ ký của bị cáo Đỗ Tấn P; 01 (một) dĩa DVD chứa hình ảnh phạm tội của bị cáo được trích xuất từ camera Công ty M.

(theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 79 ngày 12/5/2020 và Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 79A ngày 29/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.)

4. Về án phí: Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

5. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

6. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được được niêm yết theo quy định pháp luật.

Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo tại phiên tòa.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2020/HS-ST ngày 22/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:84/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về