Bản án 84/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 84/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 500/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2019 về “tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Bé T, sinh năm 1994 (Vắng mặt);

Cư trú tại: Số A, ấp Tân L, xã Thạnh L, huyện V T, tỉnh Cần Thơ.

- Bị đơn: Anh Lê Hoàng D, sinh năm 1991 (Vắng mặt);

Cư trú tại: Tổ C, ấp Hiệp B, xã Hòa T, huyện C T, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/7/2017 và lời khai có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn chị Phạm Thị Bé T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lê Hoàng D chung sống với nhau vào năm 2014, Có tổ chức lễ cưới và đến ngày 03/8/2015 đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Thạnh Lộc, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Cần Thơ. Thời gian mới kết hôn vợ chồng chị chung sống hạnh phúc nhưng chỉ mấy tháng sau đó là năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, cãi vả thường xuyên. Nguyên nhân là do anh D và chị thường bất đồng quan điểm, anh D đánh dập chị nhiều lần. Ngoài ra anh D còn chửi chị bằng những lời rất thậm tệ. Chị đã đem con về nhà mẹ ruột chị sống từ khi con chị được 9 tháng tuổi đến nay khoảng 4 năm. Do đó, vợ chồng chị cũng ly thân từ đó đến nay, vợ chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng không thể hòa giải mâu thuẫn. Nay chị nhận thấy mâu thuẫn giữa hai vợ chồng rất trầm trọng, tình cảm đã thực sự không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh D.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 người con chung tên Lê Tuấn A, sinh ngày 16/6/2015. Từ ngày vợ chồng ly thân, con chung vẫn luôn ở với chị, một mình chị làm nuôi con, anh D không đưa tiền cho chị nuôi con. Nay chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh D cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị xác định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Lê Hoàng D đến để giải quyết vụ án nhưng anh D đều vắng mặt không rõ lý do nên không có ý kiến của anh.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh trình bày:

Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự, không có vi phạm. Các đương sự tham gia tố tụng trong vụ án chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận cho chị T và anh D được ly hôn. Giao con chung tên Lê Tuấn A, sinh ngày 16/6/2015 cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con; Tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Anh Lê Hoàng D là bị đơn, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không rõ lý do, chị Phạm Thị Bé T là nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 xét xử vắng mặt chị T, anh D.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh D chung sống với nhau năm 2014, có tổ chức lễ cưới và đến ngày 03/8/2015 đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Thạnh Lộc, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Cần Thơ. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

[3]. Về mâu thuẫn của vợ chồng: Xét thấy quá trình sống chung, chị T và anh D bất đồng quan điểm, thường cãi vả thường xuyên. Anh D và chị T thường bất đồng quan điểm, cải nhau, anh D đánh dập chị T nhiều lần. Ngoài ra anh D còn chửi chị bằng những lời rất thậm tệ. Do đó, vợ chồng anh, chị đã ly thân từ năm 2015 cho đến nay khoảng 4 năm, vợ chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng không thể hòa giải mâu thuẫn. Tòa án đã triệu tập anh D nhiều lần nhưng anh D không đến Tòa án để làm việc nên không có ý kiến gì về yêu cầu ly hôn của chị T.

[4]. Quá trình thu thập chứng cứ có xác minh ý kiến của những người biết việc, xác định mâu thuẫn vợ chồng như chị T trình bày là đúng. Anh D và chị T ly thân từ năm 2015 đến nay khoảng 4 năm. Điều này vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Từ những phần tích trên xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị là phù hợp Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

[5]. Về con chung: Vợ chồng chị T, anh D có 01 người con chung Lê Tuấn A, sinh ngày 16/6/2015. Theo chị T trình bày từ khi ly thân đến nay một mình chị làm nuôi con. Anh D không đưa tiền cho chị nuôi con. Anh D đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng anh không đến Tòa án, nên anh phải chịu trách nhiệm về việc vắng mặt của mình. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung, Hội đồng xét xử thấy cần giao con chung tên Lê Tuấn A, sinh ngày 16/6/2015 cho chị Phạm Thị Bé T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

[6]. Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh D không có ý kiến nên không đặt ra giải quyết.

[7]. Về nợ chung: Chị T trình bày không có, anh D không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[8]. Về án phí: Do chị Phạm Thị Bé T là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Anh Lê Hoàng D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Bé T đối với anh Lê Hoàng D. Chị Phạm Thị Bé T được ly hôn với anh Lê Hoàng D.

2. Về con chung: Giao con chung tên Lê Tuấn A, sinh ngày 16/6/2015, cho chị T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

Anh Lê Hoàng D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở anh D thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết;

4. Về nợ chung: Không có nên không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí:

Chị Phạm Thị Bé T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0006111 ngày 23/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Chị Phạm Thị Bé T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:84/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về