Bản án 84/2019/HNGĐ-ST ngày 06/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

 BẢN ÁN 84/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 475/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2019, về việc “Ly hôn, Tranh chấp về nuôi con”; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/10/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 71/2019/QĐST-HNGĐ ngày 21/10/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thu T – Sinh năm 1997.

Đa chỉ: Khu phố L, thị trấn M, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc H – Sinh năm 1997.

Đa chỉ: Khu phố L, thị trấn M, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

Đương sự có mặt: Chị T; Đương sự vắng mặt: Anh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 26/8/2019, bản khai của nguyên đơn chị Phạm Thị Thu T khai:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Ngọc H Gia cưới nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Ma Lâm theo Giấy chứng nhận kết hôn số 64 ngày 28/6/2017. Việc cưới nhau là do hai bên tự nguyện thời gian tìm hiểu 02 năm. Sau khi cưới vợ chồng sống tại khu phố Lâm Hòa, thị trấn Ma Lâm, huyện Hàm Thuận Bắc. Vợ chồng sống hạnh phúc được 02 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Hậu thường xuyên ăn nhậu, không quan tâm gì đến vợ con, chị đã khuyên răn nhiều lần nhưng anh Hậu không nghe.

Vợ chồng chị không còn chung sống với nhau từ khoảng tháng 05/2019 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa và chị yêu cầu xin được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Phạm Duy A - Sinh ngày 03/6/2018. Hiện nay con đang ở cùng với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con và không yêu cầu anh Nguyễn Ngọc H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ: Không yêu cầu Tòa giải quyết.

Ngoài ra, anh Nguyễn Ngọc H vắng mặt nên chị yêu cầu Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị đơn anh Nguyễn Ngọc H đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tụng tố tụng như ghi lời khai, lập biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con với bị đơn. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con. Bị đơn có địa chỉ tại khu phố Lâm Hòa, thị trấn Ma Lâm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Ngọc H đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Thu T và anh Nguyễn Ngọc H cưới nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Ma Lâm theo Giấy chứng nhận kết hôn số 64 ngày 28/6/2017. Đây là hôn nhân hợp pháp, phù hợp với quy định tại các Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình. Chị Thanh cho rằng vợ chồng sống hạnh phúc được 02 tháng thì phát sinh mâu thuẫn và nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Hậu thường xuyên ăn nhậu, không quan tâm gì đến vợ con, chị T đã khuyên răn nhiều lần nhưng anh H không nghe. Vợ chồng chị không còn chung sống với nhau từ khoảng tháng 05/2019 cho đến nay. Nay chị Phạm Thị Thu T xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa và chị yêu cầu xin được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc H.

Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi Tòa án mở phiên tòa, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Nguyễn Ngọc H nhưng anh Hậu cố tình lẫn tránh, vắng mặt không có lý do nên Tòa không tiến hành hòa giải vụ án theo quy định của pháp luật được. Việc đó thể hiện ý thức xem thường pháp luật, không thiết tha gì đến hạnh phúc và hôn nhân của mình. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử nhận định quan hệ hôn nhân giữa chị Thanh và anh Hậu thực tế đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục cuộc sống chung được. Do vậy, yêu cầu được ly hôn của chị Phạm Thị Thu T là có căn cứ nên chấp nhận.

- Về con chung: Chị Phạm Thị Thu T và anh Nguyễn Ngọc H có 01 con chung tên Nguyễn Phạm Duy A - Sinh ngày 03/6/2018. Hiện nay con đang ở cùng chị Thanh.

Tại đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa, chị T yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con tên Nguyễn Phạm Duy A, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu nuôi con của chị T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Con tên Nguyễn Phạm Duy A ở với chị T từ khi sinh ra cho đến nay đều do chị T chăm sóc và giáo dục, anh H không đến Tòa để nêu ý kiến của mình. Vì vậy, giao con chung tên Nguyễn Phạm Duy A cho chị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Chị T không yêu cầu anh Hậu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Phạm Thị Thu T phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

Anh Nguyễn Ngọc H không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Điều 70, Điều 72, Khoản 4 Điều 91, Điều 207, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Điều 146, Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a Khoản 5, Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Phạm Thị Thu T về việc yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Ngọc H.

Chị Phạm Thị Thu T được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc H.

2. Về con chung:

Chị Phạm Thị Thu T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Phạm Duy A - Sinh ngày 03/6/2018.

Chị Phạm Thị Thu T không yêu cầu anh Nguyễn Ngọc H cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Ngọc H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí:

Chị Phạm Thị Thu T phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Phạm Thị Thu T đã nộp đủ 300.000đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0028563 ngày 28/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận nên không nộp nữa.

Anh Nguyễn Ngọc H không chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo :

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 06/11/2019), bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2019/HNGĐ-ST ngày 06/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:84/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về