Bản án 84/2018/HSST ngày 04/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 84/2018/HSST NGÀY 04/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 10 năm 2018, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 87/2018/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2018, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2018/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2018 đối với:

Bị cáo: Bùi Xuân D- Tên gọi khác: Không;

Sinh ngày 19 tháng 10 năm 1988, tại Điện Biên; Nguyên quán: Huyện H, tỉnh Thái Bình; Chỗ ở: Tổ dân phố 10, phường N, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Con ông: Bùi Văn V và con bà Nguyễn Thị D; bị cáo chưa có vợ, con.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/6/2018 đến ngày 08/6/2018 bị tạm giam cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Điêu Thị Ngọc – sinh năm 1996. Địa chỉ: Tổ dân phố 10, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên (có đơn xin xét xử vắng mặt);

- Bà Nguyễn Thị Dung – sinh năm 1960. Địa chỉ: Tổ dân phố 10, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Xuân D:

Vào khoảng 16 giờ 20 phút ngày 01/6/2018 tại tổ dân phố 06, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ áp sát Bùi Xuân D điều khiển xe mô tô Honda BKS 27B1 – 470.34 tham gia giao thông, phát hiện bắt quả tang D ném từ tay trái xuống đường một gói có 05 viên nén màu hồng, đồng thời thu giữ trong túi quần bên trái D đang mặc một gói bên trong có các cục chất bột màu trắng. D khai nhận đó là Heroine và Hồng phiến D mang theo người để bản thân sử dụng và có ai mua thì bán. Cùng ngày Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp nơi ở của D, qua khám xét đã thu giữ một gói nhỏ chứa 03 viên nén màu hồng để trong vỏ hộp nhựa bọc nỉ màu đỏ giấu trong mũ bảo hiểm treo trên tường; tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành 3.800.000 đồng; 01 ống điếu tự chế làm bằng lọ nhựa màu trắng; 01 chứng minh nhân dân mang tên Bùi Xuân D. 

D khai nguồn gốc số ma túy cơ quan Công an thu giữ khi bắt quả tang và khám xét là D mua của một người thanh niên không quen biết ở bản Xôm, xã Thanh An, huyện Điện Biên với số tiền 435.000 đồng.

2. Các vấn đề khác:

Ngày 02/6/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra đã gửi toàn bộ vật chứng thu giữ của Bùi Xuân Dlàm mẫu giám định. Tại bản kết luận giám định số 522/GĐ-PC54 ngày 07/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy: Loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I và hai mẫu viên nén màu hồng gửi giám định là ma túy: Loại Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT:323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về kết luận giám định nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Cáo trạng số 55/CT-VKSTPĐBP ngày 30/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251/BLHS. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (sửa đổi bổ sung năm 2017); Xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; vật chứng vụ án đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật, không áp dụng hình phạt bổ sung.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát. 

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghỉ nghị án: Bị cáo đã nhận thức rõ việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật, đây là bài học sâu sắc đối với bị cáo, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo để được sớm trở về toàn tụ với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

1. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2. Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Lời khai của bị cáo Bùi Xuân Dtrong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản khám xét nơi ở, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ căn cứ xác định ngày 01/6/2018 tại tổ dân phố 06, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ, bị cáo Bùi Xuân Dmua và cất giấu trái phép 0,79 gam Methamphetamine và 0,02 gam Heroine mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phépchất ma túy được quy định tại khoản 1 Điều 251/BLHS: Khoản 1: Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục đích để thỏa mãn nhu cầu cá nhân và bán kiếm lời để lấy tiền mua ma túy sử dụng. Vì vậy khẳng định Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

3. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo từ nhỏ được bố mẹ nuôi ăn học đến hết lớp 12/12 tại phường Na Lay, thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên. Năm 2006 đi học tại trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật tỉnh Điện Biên, đến năm 2008 ra trường. Năm 2009 cùng gia đình về sinh sống tại tổ dân phố 10, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ. Từ năm 2010 đến năm 2013 đi lính nghĩa vụ Công an tại Trại giam C10 Công an tỉnh Điện Biên.

Tháng 6/2014 bị cáo bắt đầu sử dụng ma túy. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52/BLHS.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, nguyên nhân xuất phát từ động cơ, mục đích bán ma túy kiếm lời và phục vụ nhu cầu bản thân.

Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có thể giúp bị cáo cai nghiện và trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

4. Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 251/BLHS: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy; Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, bị cáo sống phụ thuộc gia đình, không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

5. Về vật chứng vụ án: Gồm có 0,70 gam Methamphetamine; 0,01 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu hồng; 03 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ hộp nhựa bọc nỉ màu đỏ; 01 ống điếu tự chế không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

6. Các vấn đề khác:

Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 01 chiếc xe xe mô tô Honda BKS 27B1 – 470.34, chiếc xe này là của mẹ đẻ của bị cáo (bà Nguyễn Thị Dung – địa chỉ: Tổ dân phố 10, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên), bà

Dung không biết bị cáo dùng xe vào việc phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu. 01 điện thoại di động Iphone màu bạc kèm sim, số tiền 3.800.000 đồng; 01 chứng minh nhân dân mang tên Bùi Xuân D, không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản cho bị cáo (bà Dung là người được bị cáo D ủy quyền nhận hộ những tài sản này) đảm bảo đúng quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Bị cáo khai mua ma túy của người thanh niên không quen biết và không biết tên, tuổi, địa chỉ ở bản Xôm, xã Thanh An, huyện Điện Biên, Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ, Viện kiểm sát không truy tố, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

7. Án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; xử phạt bị cáo Bùi Xuân D 02 (hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (01/6/2018).

2. Về vật chứng:

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,7 gam Methamphetamine; 0,01 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu hồng; 03 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ hộp nhựa bọc nỉ màu đỏ; 01 ống điếu tự chế.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/8/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên).

- Chấp nhận các biên bản trả lại tài sản cho chủ sở hữu ngày 25/8/2018 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ.

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Bùi Xuân Dphải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (04/10/2018). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo về phần có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2018/HSST ngày 04/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:84/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về