Bản án 84/2018/HNGĐ-ST ngày 21/06/2018 về vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 84/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2018 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 21 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 69/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh ngày 15/5/198Y tại T. Nơi cư trú: Thôn P, xã N, huyện K, tỉnh T; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và con bà Bùi Thị T; có vợ Nguyễn Thị D và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16/10/2017 đến ngày 20/10/2017 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Người bị hại: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 197X; Nơi cư trú: Tổ 15 phường T, quận D, Hải Phòng (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Anh Trần Văn Q, sinh năm 197K; Nơi cư trú: Tổ 15 phường T, quận D, Hải Phòng là chồng của bị hại. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 11 phút ngày 15/10/2017, Nguyễn Văn H điều khiển xe ôtô đầu kéo biển kiểm soát: 15C-147.75, kéo theo rơ– moóc biển kiểm soát: 15R- 108.26 , đi trên đường H - C 2 theo hướng từ C 2 đến đường N. Khi đi tới khu vực ngã ba đường N với đường H -C 2, H điều khiển xe chuyển hướng để rẽ phải vào đường N. Do thiếu chú ý quan sát nên đầu xe ôtô của H đã va chạm vào phần đuôi xe máy mang biển kiểm soát: 16N6-5009 do chị Nguyễn Thị L, sinh năm: 197X, nơi cư trú: tổ 15 H, quận D, thành phố Hải Phòng điều khiển đi cùng chiều phía trước tại khu vực trước cửa nhà số 393 N, phường K, quận L, Hải Phòng. Hậu quả chị Lệ tử vong tại chỗ. Cùng ngày H đã đến Công an phường K, quận L, Hải Phòng đầu thú.

Khám nghiệm hiện trường thể hiện:

- Đường H -C 2 rộng 23m00 gồm 2 chiều đường có giải phân cách cứng. Khu vực xảy ra tai nạn chiều đường theo hướng từ C 2 về N rộng 14m, tại ngã 3 giao đường H - C 2 và Ncó hệ thống đèn tín hiệu và biển chỉ dẫn phân làn đường thành 4 làn đường, 2 làn đường ngoài (sát dải phân cách cứng) dành cho ô tô, 2 làn đường trong (sát vỉa hè) dành cho phương tiện xe máy và xe thô sơ được phân cách với làn đường dành cho ô tô bằng vạch kẻ đường màu trắng liền.

- Xe đầu kéo biển kiểm soát: 15C-147.75, kéo theo rơ – moóc biển kiểm soát: 15R-108.26 đỗ, đầu xe quay hơi chếch về hướng cầu vượt L, đuôi xe quay về hướng C 2. Trục trước bánh trước bên phải cách mép vỉa hè số nhà lẻ là 5m60, trục bánh sau cùng bên phải cách vỉa hè số nhà lẻ là 3m70 (tại khu vực ngã ba vỉa hè đường có đường cong). Xe đầu kéo đỗ trên làn đường dành riêng cho phương tiện là xe máy và xe thô sơ.

- Xe mô tô 16N6-5009 đổ nghiêng sang phải nằm dưới gầm đầu kéo 15C- 147.75, đầu xe quay về hướng ngã ba. Trục bánh trước cách mép vỉa hè số nhà lẻ là 7m30, trục bánh sau cách mép vỉa hè số nhà lẻ là 6m10, trục bánh trước xe mô tô cách trục bánh trước bên trái xe đầu kéo là 2m00.

- Tại hiện trường để lại vết trầy cao su dưới mặt đường có kích thước 8m50 x 0,01m, điểm đầu cách mép vỉa hè số nhà lẻ là 3m60, điểm cuối nằm dưới trục bánh sau cùng bên phải rơ-moóc 15R-108.26.

Kết quả khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông thể hiện như sau:

Đối với xe ô tô đầu kéo 15C-14775 + Mặt ngoài phía trước ba đờ sốc xe đầu kéo mang biển kiểm soát: 15C- 147.75 để lại vết mài xước, bong tróng sơn có kích thước 8cm x 8cm. Điểm cao nhất cách mặt đất 73cm, để lại 01 vết dung dịch màu nâu đỏ (nghi máu) và cách vết mài xước 13cm về bên phải.

+ Mặt ngoài ba đờ sốc phía dưới để lại vết mài xước kim loại thành rãnh có kích thước 4cm x 0,1cm. Điểm cao nhất cách mặt đất 60cm.

+ Dưới gầm xe đầu kéo mang biển kiểm soát: 15C-147.75 để lại vết vỡ két nước có kích thước 5cm x 5cm, ống nước nối két nước bị bật rời khỏi vị trí ban đầu, ống nước cao su có vết rách cao su kích thước 6cm x 5cm.

+ Tại ba đờ sóc bên phải xe (bên phụ) để lại dấu vết bẹp lõm ba đờ sốc kích thước 14cm x 10cm theo hướng từ trước về sau, từ dưới lên trên, tâm viết bẹp lõm cách mép ngoài biển số 15C-147.75 phía trước 60cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 56cm, điểm cao nhất cách mặt đất 60cm. Tâm vết bẹp lõm cách vết mài xước phía trên 12 cm.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát: 16N6-5009 + Đèn chiếu hậu để lại dấu vết vỡ nhựa kích thước 6cm x 4cm (phần nhựa bị vỡ bị bật rời khỏi đèn chiếu hậu). Điểm cao nhất cách mặt đất 78cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 74cm.

+ Biển số 16N6-5009 bị cong gập theo hướng từ sau về trước, điểm thấp nhất cách mặt đất 55 cm, điểm cao nhất cách mặt đất 67 cm.

+ Phần nhựa phía trên đèn chiếu hậu bị bong bật và không còn gắn ở cụm đèn chiếu hậu.

+ Để chân trước bên trái cong gập có hướng từ ngoài vào trong từ trái sang phải.

+ Mặt ngoài yếm bên phải mài xước, bề mặt bám dính tạp chất màu đen, có kích thước 12cm x 20cm. Điểm cao nhất cách mặt đất 70 cm.

+ Để chân trước bên phải cong vênh có hướng từ dưới lên trên từ trước về sau.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 222/2017/TT ngày 19/10/2017 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định: Nạn nhân Nguyễn Thị L bị đa chấn thương, chấn thương sọ mặt, cột sống thắt lưng, khung chậu rách gây lóc mất da vùng mặt, gãy xương chính mũi, gãy vỡ di lệch xương cột sống thắt lưng, xương khung chậu.

- Nguyên nhân chết: Nạn nhân Nguyễn Thị L bị tai nạn giao thông chết vì suy hô hấp, suy tuần hoàn cấp không hồi phục do đa chấn thương, chấn thương sọ não mặt, chấn thương cột sống thắt lưng, khung chậu nặng.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận hành vi: Hồi 10 giờ 11 phút ngày 15/10/2017, xe ôtô do H điều khiển đang lưu thông ở làn đường giữa của đường H -C 2 (đường H-C 2 được chia thành 3 làn đường), còn xe máy do chị Lệ điều khiển lưu thông ở làn đường trong cùng sát mép vỉa hè. Lúc này xe ôtô do H điều khiển đi phía sau xe máy. Khi đi đến ngã ba đường N với đường H-C 2, cả ôtô và xe máy đều chuyển hướng để rẽ phải vào đường N thì va chạm xảy ra. Phần phía trước bên phải của xe đầu kéo đã va chạm với phần phía sau bên trái của đuôi xe máy. Sau đó chị L bị ngã khỏi xe máy và bị 02 dàn bánh trước của xe đầu kéo chèn qua thân rồi bị mắc kẹt ở dàn bánh thứ hai và thứ ba và bị kéo lê khoảng 02 giây thì xe ôtô dừng hẳn.

Tại bản Cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 07/5/2018 Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn H và đề nghị HĐXX:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 31 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H mức án từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo không có thu nhập ổn định nên đề nghị miễn khấu trừ thu nhập.

Về trách nhiệm dân sự: Tại giai đoạn điều tra, bị cáo cùng gia đình đã bồi thường cho gia đình người bị hại tổng số tiền 180.000.000 đồng (một trăm tám mươi triệu đồng). Gia đình người bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không còn yêu cầu gì khác về phần bồi thường dân sự nên không đề nghị HĐXX xem xét.

Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe số 310114001476 hạng FC mang tên Nguyễn Văn H.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường; phù hợp với Biên bản khám nghiệm và kết luận giám định pháp y về tử thi; phù hợp với niên bản khám nghiệm phương tiện giao thông cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 15/10/2017, Nguyễn Văn H đã có hành vi điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 15C – 147.75 kéo theo xe sơmi rơ-mooc biển kiểm soát 15R- 108.26 chở 01 container vi phạm Luật giao thông đường bộ quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ quy định: “Trong khi chuyển hướng, người lái xe, …chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc nguy hiểm cho người và phương tiện khác.” gây thiệt hại cho tính mạng của chị Nguyễn Thị L tại ngã ba đường H -C 2 với đường N, phường K, quận L, Hải Phòng nên đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn H về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng, gây thiệt hại đến sức khỏe và tài sản, tính mạng của người khác.

- Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: [4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Nhân thân chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét bị cáo phạm tội lần đầu, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn. Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã tự ra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình. Tại giai đoạn điều tra bị cáo cùng gia đình đã tự nguyện tích cực bồi thường khắc phục hậu quả và được đại diện hợp pháp cho người bị hại làm đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 cần áp dụng đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.

[6] Do bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà có thể áp dụng Điều 31 Bộ luật hình sự, để áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo cũng đủ tác dụng cải tạo giáo dục và phòng ngừa chung, đồng thời cũng thể hiện chính sách nhân đạo của Pháp luật Nhà nước ta.

[7] Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử miễn khấu trừ thu nhập theo quy định tại khoản 3 Điều 31 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tại giai đoạn điều tra, bị cáo cùng gia đình đã bồi thường cho gia đình người bị hại tổng số tiền 180.000.000 đồng (một trăm tám mươi triệu đồng). Gia đình người bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không còn yêu cầu gì khác về phần bồi thường dân sự nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về xử lý vật chứng:

[9] Đối với xe đầu kéo BKS 15C-147.75 và rơ – mooc BKS 15R-108.26 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã ra quyết định xử lý vật chứng cho chủ sở hữu hợp pháp là Công ty TNHH vận tải M nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[10] Đối với xe moto BKS 16N6 – 5009, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho người đại diện hợp pháp của chị Nguyễn Thị L nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[11] Đối với 01 giấy phép lái xe số 310114001476 hạng FC mang tên Nguyễn Văn H, xét đây là tài sản riêng của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 31 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Khi chấp hành án trừ cho bị cáo 15 (mười lăm) ngày cải tạo không giam giữ do bị cáo đã bị tạm giữ 05 ngày trước đó từ ngày 16/10/2017 đến ngày 20/10/2017. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Ủy ban nhan dân xã N, huyện K, tỉnh T giám sát, giáo dục.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2018/HNGĐ-ST ngày 21/06/2018 về vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:84/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về