Bản án 84/2018/HNGĐ-ST ngày 11/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 84/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/12/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 338/2018/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/11/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2018/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T; ĐKHKTT: Thôn T, xã Đ, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; cư trú tại: Thôn 1, xã H, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn C; cư trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, tại bản tự khai và quá trình tố tụng nguyên đơn là chị Phạm Thị T trình bày:

Chị và anh Trần Văn C kết hôn do tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng vào năm 2009. Sau khi kết hôn vợ chồng chị về sống tại gia đình anh C ở thôn T, xã Đ, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc một thời gian đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau về tính cách, vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm cãi vã nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ tại thôn 1, xã H, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng sống, hai bên đã sống ly thân mỗi người một nơi không ai còn quan tâm và có trách nhiệm đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mâu thuẫn đã nghiêm trọng kéo dài, vợ chồng sống ly thân, hai bên không thể hàn gắn đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Văn C.

Về con chung: Chị và anh Trần Văn C có 02 con chung là Trần Trí D, sinh ngày 26 tháng 7 năm 2010 và Trần Phạm Bích N, sinh ngày 06 tháng 4 năm 2013. Từ khi ly thân hai con chung do chị nuôi dưỡng. Ly hôn chị đề nghị Tòa án giao hai con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn, chị không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị.

Về tài sản chung: Chị và anh Trần Văn C tự thỏa thuận phân chia, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn anh Trần Văn C:

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã nhiều lần triệu tập anh Trần Văn C đến Toà án để trình bày quan điểm của mình đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị T song anh Trần Văn C đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự: Xét xử tập thể, công khai, trình tự thủ tục tiến hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với nguyên đơn đã chấp hành các quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã vi phạm Điều 70 và Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự, không tham gia tố tụng trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án của Tòa án.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp và do Tòa án thu thập, lời khai của các đương sự tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; Các Điều 51,56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử: cho chị Phạm Thị T được ly hôn với Trần Văn C.

Về con chung: Giao hai con chung Trần Trí D, sinh ngày 26 tháng 7 năm 2010 và Trần Phạm Bích N, sinh ngày 06 tháng 4 năm 2013 cho chị Phạm Thị Ttrực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng  nuôi con chung của anh C cho chị Th. Khi nào chị T có yêu cầu, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về việc vắng mặt của bị đơn anh Trần Văn C : Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tiến hành các trình tự giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Toà án đã giao và gửi thông báo thụ lý vụ án, giấy báo và các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho anh Trần Văn C theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự song bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn anh Trần Văn C.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ vào chứng cứ do đương sự cung cấp và các chứng cứ do Toà án thu thập đã có đủ cơ sở xác định lời khai của chị Phạm Thị T về thời gian, điều kiện kết hôn và quá trình chung sống giữa hai bên là đúng sự thật. Mâu thuẫn vợ chồng được thể hiện ở việc trong quá trình chung sống hai bên thường xuyên va chạm, bất hòa, không có hạnh phúc và vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay, không ai còn quan tâm và trách nhiệm đến nhau nữa. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau về tính cách. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần báo anh Trần Văn C đến để hòa giải tìm cách khắc phục mâu thuẫn giữa anh C và chị T. Tuy nhiên anh C đều vắng mặt không có lý do, không tham gia phiên hòa giải để hai bên hàn gắn đoàn tụ. Bản thân chị T xác định chị không còn tình cảm vợ chồng, không thể quay về đoàn tụ cùng anh C và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Văn C.

Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị Phạm Thị T và anh Trần Văn C kéo dài và trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, sống ly thân, tình cảm vợ chồng không còn do đó yêu cầu xin ly hôn của chị T với anh C là có cơ sở cần được chấp nhận để giải phóng cho hai bên khỏi sự ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân. Căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Phạm Thị T được ly hôn với anh Trần Văn C.

[3] Về con chung: Chị Phạm Thị T và anh Trần Văn C có 02 con chung là Trần Trí D, sinh ngày 26 tháng 7 năm 2010 và Trần Phạm Bích N, sinh ngày 06 tháng 4 năm 2013. Việc nuôi dưỡng con chung là quyền đồng thời là nghĩa vụ của cha mẹ. Quá trình giải quyết vụ án chị T có quan điểm từ khi ly thân hai con chung đều do chị nuôi dưỡng nên tiếp tục giao hai con chung Trần Trí D và Trần Phạm Bích N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn, chị không yêu cầu anh Cường phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị. Anh Trần Văn C không có lời khai, không có mặt tại phiên tòa nên không có quan điểm của anh Cường về con chung. Xét quan điểm của chị T đưa ra là tự nguyện, phù hợp nên giao hai con chung Trần Trí D, sinh ngày 26 tháng 7 năm 2010 và Trần Phạm Bích N, sinh ngày 06 tháng 4 năm 2013 cho chị Phạm Thị T nuôi dưỡng sau ly hôn, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh Trần Văn C cho chị Phạm Thị T. Sau này nếu hai bên có tranh chấp về việc nuôi và cấp dưỡng nuôi con chung Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án dân sự khác

[4] Về tài sản chung: Chị Phạm Thị T có quan điểm chị và anh Trần Văn C không có tài sản chung nên không yêu cầu Toà án xem xét giải quyết còn anh C không có quan điểm gì. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét về tài sản chung sau này nếu hai bên có tranh chấp Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.

[5] Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 70, 147, Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 39 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 6, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Quốc hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016,

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị T được ly hôn với anh Trần Văn C.

2. Về con chung: Giao hai con chung Trần Trí D, sinh ngày 26 tháng 7 năm2010 và Trần Phạm Bích N, sinh ngày 06 tháng 4 năm 2013 cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh Trần Văn C cho chị Phạm Thị T. Khi nào chị T có yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết bằng vụ án dân sự khác. Thời hạn nuôi con tính từ ngày 12 tháng 12 năm 2018 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi nếu không có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Chị T đã nộp đủ số tiền án phí ly hôn sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương (Biên lai thu tiền số 0015354 ngày 24 tháng 9 năm 2018) nên không phải nộp nữa.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2018/HNGĐ-ST ngày 11/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:84/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về