Bản án 839/2020/HS-PT ngày 11/11/2020 về tội chứa mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 839/2020/HS-PT NGÀY 11/11/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 11 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 750 /2020/TLPT-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Mai Thị T phạm tội “ Chứa mại dâm” do có kháng cáo của Bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Mai Thị T, sinh năm 19XX; Tên gọi khác: Không; Giới tính : Nữ. Nơi ĐKHKTT và trú tại: Thôn 5, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Mai Xuân Th và con bà: Trần Thị Nh; Chồng: Phạm Thế A; Con: có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo Mai Thị T bị tạm giữ từ ngày 18/9/2019, tạm giam từ ngày 27/9/2019 đến ngày 21/01/2020. Hiện đang tại ngoại, (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 45 ngày 17/9/2019, Phòng cảnh sát hình sự, Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công xã Thuần Mỹ tiến hành kiểm tra cơ sở tắm khoáng nóng ở thôn 5, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì do bị cáo Mai Thị T làm chủ. Quá trình kiểm tra phát hiện tại phòng 203 và 204 mỗi phòng có một khách nam là Ngô Văn Viễn; Nguyễn Tuấn Anh. Tại phòng ngủ tầng 1 sát cầu thang có 02 nhân viên nữ là Đinh Thị Tỵ, Bùi Thị Dung. Tại bàn uống nước có Mai Văn Tân. Quá trình kiểm tra thu giữ tại phòng 203 và 204 mỗi phòng 01 bao cao su đã qua sử dụng. Tổ công tác đã yêu cầu bị cáo Mai Thị T và tất cả những người trên về trụ sở để làm rõ.

Quá trình điều tra, xác minh đã làm rõ: Khoảng 14 giờ 15 ngày 17/9/2019, khi bị cáo Mai Thị T đang ở cơ sở tắm khoáng nóng do mình làm chủ thì có Ngô Văn Viễn, Nguyễn Tuấn Anh và Mai Văn Tân cùng đi trên một xe taxi đến đặt vấn đề tắm khoáng nóng. Bị cáo T đồng ý và sắp xếp cho ba người tắm tại 03 phòng tắm ở tầng 1. Sau khi tắm xong, Tân đặt vấn đề với bị cáo T sắp xếp cho 03 gái bán dâm để Tân, Viễn và Tuấn Anh mua dâm. Bị cáo T đồng ý và thỏa thuận với Tân giá mỗi lượt tắm và mua dâm là 250.000đ. Thỏa thuận xong, bị cáo T sắp xếp cho Tân vào phòng 202, Viễn vào phòng 203 và Tuấn Anh vào phòng 204 ở trên tầng hai của cơ sở. Bị cáo T bảo gái bán dâm có sẵn ở cơ sở của mình là Đinh Thị Tỵ vào phòng 202 bán dâm cho Tân. Sau đó, Bị cáo T đi xe máy ra ngoài đường làng thôn 5 để tìm gái bán dâm. Khi đi được khoảng 500m, cách cổng nhà Nguyễn Thị Hương, sinh năm 1973 khoảng 20m, bị cáo T gặp Bùi Thị Dung. Bị cáo T đặt vấn đề với Dung về bán dâm cho khách tại cơ sở của bị cáo T. Dung đồng ý và đi theo bị cáo T. Trên đường về, bị cáo T gặp một gái bán dâm (Bị cáoT không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của gái bán dâm này). Bị cáo T đặt vấn đề với gái bán dâm này về cơ sở của bị cáo T để bán dâm. Người này đồng ý và đi theo bị cáo T. Trên đường về, bị cáo T thỏa thuận với Dung và gái bán dâm lạ mặt là sẽ trả cho họ 100.000đ mỗi lần bán dâm. Khi về đến cơ sở, bị cáo T bố trí gái bán dâm lạ mặt lên phòng 203 bán dâm cho Viễn, bố trí Dung lên phòng 204 bán dâm cho Tuấn Anh. Một lúc sau, Tân và Viễn mua dâm xong và đi xuống khu vực sân. Bị cáo T lấy 100.000đ trả cho gái bán dâm lạ mặt, người này cầm tiền và đi ra khỏi cơ sở của bị cáo T. Lúc này, Tân có đặt vấn đề với T để cho Viễn và Tuấn Anh tiếp tục mua dâm thêm lượt nữa. Bị cáo T đồng ý và bảo Tỵ lên phòng 203 bán dâm cho Viễn. Bị cáo T gọi điện thoại bảo Dung tiếp tục bán dâm cho Tuấn Anh thêm lần nữa. Sau đó, bị cáo T ngồi nói chuyện với Tân ở bàn uống nước. Tân thanh toán cho bị cáo T số tiền 1.250.000đ tiền tắm khoáng nóng và mua dâm cộng với 30.000đ tiền uống nước. Đến khoảng 14 giờ 45, khi Viễn và Tuấn Anh cùng Dung và Tỵ đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì có lực lượng Công an đến cơ sở của bị cáo T để kiểm tra. Bị cáo T đã chạy lên phòng 203, 204 gọi Tỵ và Dung ra khỏi phòng nhằm trốn tránh việc kiểm tra.

Quá trình làm việc những người mua dâm gồm Ngô Văn Viễn, Mai Văn Tân, Nguyễn Tuấn Anh và gái bán dâm là Đinh Thị Tỵ và Bùi Thị Dung đã khai nhận toàn bộ hành vi mua bán dâm của bản thân ngày 17/9/2019 tại cơ sở tắm khoáng nóng của bị cáo Mai Thị T. Cơ quan điều tra, Công an thành phố Hà Nội đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với bị cáo Mai Thị T về hành vi chứa mại dâm. Tiến hành thu giữ của T 01 điện thoại di dộng Iphone màu hồng trắng, số tiền 1.280.000đ; thu giữ của Dung 01 điện thoại di động Samsung màu bạc đã qua sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra, Đinh Thị Tỵ khai nhận: Tỵ đến cơ sở của bị cáo T làm gái bán dâm 02 lần, Tỵ và bị cáo T thỏa thuận bị cáo T sẽ nuôi ăn, ở và mỗi lần bán dâm bị cáo T sẽ trả cho Tỵ 100.000đ. Lần thứ nhất trong khoảng thời gian từ cuối tháng 7/2019 đến ngày 03/8/2019, trong thời gian này Tỵ đã bán dâm nhiều lần tại cơ sở của bị cáo T và được bị cáo T thanh toán cho số tiền 1.000.000đ. Tất cả những lần bán dâm này Tỵ đều không biết khách mua dâm là ai. Lần thứ hai, Tỵ đến cơ sở của bị cáo T vào ngày 16/9/2019. Ngày 17/9/2019, khi Tỵ đang bán dâm tại cơ sở của bị cáo T thì bị kiểm tra và phát hiện. Tỵ chưa được bị cáo T thanh toán tiền bán dâm lần này.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Thị Dung khai nhận: Từ tháng 8/2019 Dung là nhân viên ở cơ sở tắm khoáng nóng ở thôn 5, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì do Nguyễn Thị Hương làm chủ. Dung và Hương thỏa thuận mỗi lần bán dâm Hương sẽ trả cho Dung 50.000đ. Trong thời gian ở nhà Hương, Dung đã được Hương nhiều lần điều đi bán dâm tại các cơ sở tắm khoáng nóng trên địa bàn thôn 5, xã Thuần Mỹ. Chiều ngày 17/9/2019, khi Dung đang ở cơ sở của Hương thì Hương bảo Dung đến nhà bị cáo T bán dâm, Dung đồng ý. Một lúc sau bị cáo T đến đón Dung về cơ sở của bị cáo T để bán dâm cho khách. Dung còn khai nhận, trước đó đã bán dâm tại cơ sở tắm khoáng nóng do bị cáo T làm chủ 4-5 lần đều do Hương điều đi. Tất cả những lần bán dâm này, Dung đều không biết khách mua dâm là ai.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Mai Thị T khai nhận toàn bộ hành vi chứa mại dâm của bản thân ngày 17/9/2019 và việc gọi điện thoại cho Hương đề bảo Bùi Thị Dung đến bán dâm tại cơ sở của mình như trên. Việc bị cáo T chứa mại dâm tại cơ sở tắm khoáng nóng của gia đình thì chỉ có một mình bị cáo T thực hiện, các thành viên khác trong gia đình không biết.

Đối với việc chứa mại dâm nhiều lần trước đó, các lời khai ban đầu tại Cơ quan điều tra bị cáo T đều khai nhận việc chứa mại dâm nhiều lần phù hợp với lời khai của Tỵ và của Dung, cụ thể: Tỵ đã bán dâm tại cơ sở của bị cáo T khoảng 6-10 lần và bị cáo T đã thanh toán cho Tỵ số tiền 1.000.000đ; Dung đã bán dâm tại cơ sở của bị cáo T 02 lần vào ngày 14/9/2019 và ngày 17/9/2019. Ngoài ra, từ tháng 7/2019 đến trước khi bị bắt, bị cáo T đã nhiều lần liên hệ với Hương để điều gái bán dâm tới nhà bị cáo T để bán dâm cho khách và đã thanh toán cho Hương số tiền khoảng 5.000.000đ. Tuy nhiên, sau đó bị cáo T không thừa nhận việc chứa mại dâm nhiều lần và không thừa nhận việc liên hệ với Hương để điều gái bán dâm đến bán dâm tại cơ sở của bị cáo T.

Đối với Nguyễn Thị Hương, quá trình làm việc tại Cơ quan điều tra Hương khai nhận: Chiều ngày 17/9/2019 bị cáo T có gọi điện thoại cho Hương để trao đổi về việc đón con (Do con của bị cáo T và Hương học cùng lớp), Hương không trao đổi gì với bị cáo T về việc điều Dung đến cơ sở của bị cáo T bán dâm. Đối với Dung là người làm thuê dọn dẹp phòng tắm tại nhà Hương từ đầu tháng 8/2019, nhưng Dung mới làm được 02 ngày thì nghỉ, Hương đã thanh toán cho Dung số tiền 200.000đ. Tiến hành đối chất giữa Hương và bị cáo T thì Hương vẫn không thừa nhận chiều ngày 17/9/2019 có trao đổi với T về việc điều Dung đến bán dâm tại cơ sở nhà bị cáo T. Do Hương không thừa nhận hành vi điều Dung đến cơ sở tắm khoáng nóng của bị cáo T để bán dâm, không triệu tập được Dung để tiến hành đối chất giữa Hương và Dung nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xử lý Hương về hành vi môi giới mại dâm. Viện kiểm sát đã có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ hành vi của Hương nếu đủ dấu hiệu sẽ giải quyết trong vụ án khác.

Đối với khách mua dâm Ngô Văn Viễn, Mai Văn Tân, Nguyễn Tuấn Anh và gái bán dâm là Đinh Thị Tỵ, Bùi Thị Dung, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi mua bán dâm. Đối với gái bán dâm lạ mặt, do không xác định được con người cụ thể nên không đề cập xử lý trong vụ án này.

Vật chứng gồm: 02 ruột bao cao su đã qua sử dụng; 01 điện thoại hiệu Iphone màu hồng, đã qua sử dụng số Imei: 356564081822707; 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu bạcđã qua sử dụng, số Imei: 353415086184572/01: Số tiền Số tiền 1.280.000đ (Một triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 30/2020/CT-VKS ngày 21/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì đã truy tố bị cáo Mai Thị T phạm tội “Chứa mại dâm” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự 2015 .

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2020/HS-ST, ngày 11/08/2020 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà nội đã quyết định:

Căn cứ Điểm c khoản 2 Điều 327; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 Tuyên bố: Bị cáo Mai Thị T phạm tội “ Chứa mại dâm”;

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Mai Thị T 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt Bị cáo thi hành án ( Được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/9/2019 đến ngày 20/01/2020.

Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho Bị cáo.

Ngoài ra cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, tuyên về án phí và quyền kháng cáo của Bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 17 /08/2020 bị cáo Mai Thị T kháng cáo đề nghị xem xét cho Bị cáo chỉ phạm tội ở khoản 1 và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo đã thay đổi một phần yêu cầu kháng cáo, chấp nhận khoản của Điều luật không có ý kiến gì về tội danh mà cấp sơ thẩm áp dụng để xử phạt Bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

Về hình thức: Bị cáo nộp đơn kháng cáo trong thời hạn Luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của Bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung:

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm Bị cáo khai nhận đầy đủ hành vi phạm tội, xuất trình tình tiết mới, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, sửa Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

Xử bị cáo Mai Thị T từ 42 đến 48 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1.Về hình thức:

Đơn kháng cáo của Bị cáo nộp trong thời hạn luật định vậy hợp lệ, được chấp nhận xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.

2. Xét nội dung kháng cáo:

Căn cứ lời khai của Bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, cũng như tại phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Mai Thị T đã thực hiện hành vi chứa mại dâm nhiều lần: Ngày 17/9/2019 và ngày 30/7/2019 tại cơ sở tắm khoáng nóng của bị cáo T.

Hành vi nêu trên của Bị cáo đã phạm tội “Chứa mại dâm”.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Mai Thị T theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo của Bị cáo, nhận thấy: Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nguy cơ gây nhiễm bệnh tật cao, Bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm đến an toàn, trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, thuần phong, mỹ tục trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung và huyên Ba Vì nói riêng. Bị cáo Mai Thị T đã dùng cơ sở tắm khoáng nóng của mình để chứa mại dâm nhiều lần là tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối. Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, nhất là tại phiên tòa phúc thẩm, bố Bị cáo là thương bệnh binh, được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba, là người có công với Nhà Nước; Do vậy, bị cáo T được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự; Căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Căn cứ nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo Mai Thị T ra khỏi đời sống xã hội một thời gian.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, với mức án của bị cáo Mai Thị T mà cấp sơ thẩm tuyên khi lượng hình là tương sứng với hành vi phạm tội của bị cáo T. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình được chính quyền địa phương nơi cư trú của Bị cáo xác nhận. Nên cấn áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự, nhưng không đủ điều kiện cho Bị cáo được hưởng án treo.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm quyết định chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Mai Thị T. Sửa bản án hình sự sơ thẩm về phần hình sự. Giảm hình phạt cho bị cáo Mai Thị T.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355; Điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

I. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Bị cáo Mai Thị T.

II. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội về quyết định hình sự.

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 327; Điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo: Mai Thị T phạm tội: “Chứa mại dâm”.

Xử phạt: Bị cáo Mai Thị T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam (Từ ngày 18/9/2019 đến ngày 20/01/2020).

Miễn hình phạt bổ sung cho Bị cáo.

III. Về án phí:

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo không phải chịu 200. 000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

IV. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 11/11/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

418
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 839/2020/HS-PT ngày 11/11/2020 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:839/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về